Sunday, April 19, 2009

Các vụ mất tích bí ẩn

Oliver Larch

Câu chuyện về người đàn ông tên Oliver Larch diễn ra vào thế kỷ 19 ở phía bắc xứ Wales (Anh). Larch đang trên đường đi lấy nước ở một cái giếng vào mùa đông thì bất ngờ biến mất, anh chẳng để lại dấu vết nào trừ vệt dấu chân trên tuyết kết thúc đột ngột và một loạt tiếng kêu cứu từ trên trời vọng xuống.

Những người gác hải đăng trên quần đảo Flannan (Scotland)
Vào tháng 12/1900, 3 người gác hải đăng đã biến mất khỏi vị trí làm nhiệm vụ, để lại những vật dụng quan trọng giúp họ sống sót trong điều kiện khắc nghiệt trên đảo và quãng thời gian lạnh giá của năm. Dù đã thực hiện những cuộc tìm kiếm trên quy mô lớn, nhưng người ta vẫn chẳng thấy tăm tích của 3 người đâu. Lời giải thích chính thức cho sự biến mất này là những người đàn ông đã bị một cơn sóng kỳ lạ cuốn ra biển.
“Bộ ba” Bennington
Trong khoảng thời gian từ 1920-1950, thị trấn Bennington thuộc bang Vermont (Mỹ) là nơi nổi tiếng với những vụ mất tích bí hiểm không thể giải thích nổi.

Tetford là một cựu binh đang sống tại Trung tâm chăm sóc cựu chiến binh ở Bennington. Vào ngày 1/12/1949, ông đã “bốc hơi” khỏi một chiếc xe buýt đông đúc khi đang trên đường trở về nhà sau chuyến đi đến thị trấn St. Albans. Khi ấy, trên xe có 14 hành khách khác và họ đều khẳng định nhìn thấy Tetford đang ngủ trên ghế của mình. Khi xe buýt tới địa điểm, Tetford đã biến mất, dù túi sách của ông vẫn ở trên giá để hành lý và tờ lịch trình xe buýt nằm trên chiếc ghế trống. Từ đó, không ai nhìn thấy Tetford nữa.

Vào 1/12/1946, cô nữ sinh 18 tuổi Paula Welden đã biến mất trong lúc đang đi dạo dọc đường mòn Long Trail xuyên vào ngọn núi Glastenbury. Một đôi vợ chồng trung niên chạy tản bộ đã nhìn thấy Welden ở phía trước cách chừng 900 m. Hai người bỗng nhiên không thấy Welden nữa khi cô đi vào con đường quanh một phiến đá to, khi họ đi vòng quanh phiến đá để tìm hiểu thì cô gái đã mất dạng hoàn toàn. Từ đó chẳng ai nhìn thấy hay nghe đến Welden nữa.

Vào giữa tháng 10/1950, bé trai 8 tuổi Paul Jepson biến mất khỏi một trang trại. Mẹ Paul kiếm sống bằng nghề trông vật nuôi thuê, cho biết cô đã để đứa con nhỏ vui chơi gần chuồng lợn trong lúc cô đang chăm sóc mấy con vật. Chỉ trong chốc lát, cô quay lại và chẳng thấy Paul đâu. Cảnh sát đã mở một cuộc tìm kiếm rộng rãi nhưng chẳng đem lại kết quả.
Owen Parfitt

Owen Parfitt bị liệt do một cơn đột quỵ nghiêm trọng. Vào tháng 6/1763, theo thói quen vào những buổi chiều tối ấm áp, Parfitt ngồi bên ngoài căn nhà của chị gái tại thị trấn Shepton Mallet (Anh). Người đàn ông 60 tuổi ngồi lặng lẽ đến nỗi người đi đường cảm nhận anh hầu như chẳng nhúc nhích. Phía bên kia đường, các công nhân của một trang trại đang chất các đống cỏ khô để hoàn tất ngày làm việc.

Khoảng 7 giờ tối, Susannah - chị gái Parfitt ra ngoài hè cùng một người hàng xóm để giúp Parfitt vào trong nhà, vì có một cơn bão sắp sửa ập đến. Nhưng Parfitt đã “đi rồi”, chỉ còn lại duy nhất chiếc áo khoác được gập vuông vắn làm đệm để Parfitt ngồi lên. Các cuộc điều tra vụ mất kỳ lạ này được thực hiện cho đến tận cuối năm 1933, tuy vậy, không hề có dấu tích hay đầu mối tiết lộ số phận của Parfitt.
Nhà ngoại giao Anh



Nhà ngoại giao người Anh Benjamin Bathurst đã biến mất năm 1809. Cùng với một người bạn, Bathurst đang trên đường trở về thành phố Hamburg (Đức) sau chuyến đi đến một tòa án của Áo. Trên đường đi, họ ghé vào một quán trọ để ăn tối ở thị trấn Perelberg.

Vừa ăn tối xong, họ quay trở lại chiếc xe ngựa đang đứng chờ. Bạn Bathurst nhìn thấy nhà ngoại giao bước lên phía trước để kiểm tra những con ngựa và biến mất mà chẳng để lại bất kỳ một dấu vết nào.

Ngôi làng của người Eskimo

Vào tháng 11/1930, Joe Labelle, một người chuyên đi bẫy thú lấy lông đi bộ đến một ngôi làng Eskimo nằm cạnh hồ Anjikuni ở phía bắc Canada. Là “khách quen” thường lui tới, Labelle biết rằng đây là một làng chài khấm khá với hơn 2.000 dân.

Khi tới nơi, Labelle sững sờ bởi ngôi làng không hề có một bóng người. Các túp lều và kho chứa đồ bị bỏ hoang, Labelle thấy một nồi thịt hầm đen trên chiếc bếp đang cháy âm ỉ. Ngay lập tức anh báo cho chính quyền địa phương.

Cuộc điều tra đã đem lại những phát hiện khó tin nổi: không hề có dấu chân của một người dân nào, nếu họ rời đi nơi khác thì chắc chắn phải có; tất cả các con chó kéo xe của người Eskimo bị chôn vùi dưới lớp tuyết dày 3,7 m và đã chết đói; còn thức ăn và lương thực dự trữ của người Eskimo không hề bị xáo trộn ở trong lều. Và có một phát hiện rùng rợn khác nữa là các ngôi mộ tổ của người Eskimo đều trống rỗng.

Bí ẩn tại quần thể đá chồng Stonehenge

Quần thể đá chồng bí ẩn Stonehenge (Anh) là nơi xảy ra một vụ mất tích kỳ lạ vào tháng 8/1971. Thời đó, người ta vẫn để khách tham quan tự do ra vào Stonehenge. Vào một đêm nọ, có một nhóm thanh niên lập dị quyết định cắm trại ở giữa chồng đá để chơi qua đêm. Họ nhóm lửa, châm vài liều ma túy và ngồi hút.

Khoảng 2 giờ sáng, cuộc vui bị ngắt quãng bởi tiếng sấm sét vang trời của một cơn bão đang đổ bộ vào khu vực Salisbury Plain. Những tia chớp sáng chói xuất hiện, đánh xuống cây cối và những hòn đá đứng sừng sững. Hai nhân chứng, một cảnh sát và một nông dân, cho biết những hòn đá bừng sáng với màu xanh kỳ lạ tỏa ra rất mạnh đến nỗi họ phải ngoảnh mặt đi.

Sau đó, họ nghe thấy những tiếng kêu la. Trên đường chạy đến chỗ xảy ra sự việc, họ nghĩ rằng sẽ thấy những người bị thương hay có thể đã chết. Nhưng trước sự ngạc nhiên đến tột cùng, họ không hề thấy ai, những gì còn lại là vài cái chân cột lều đang cháy âm ỉ và tro tàn của lửa trại. Những thanh niên lập dị đã không cánh mà bay.

Đường hầm thời gian

Vào năm 1975, một người đàn ông có tên Jackson Wright lái xe cùng vợ đi từ New Jersey đến thành phố New York. Họ phải đi qua đường hầm Lincoln, trong lúc đang lái xe, Wright tấp xe vào lề đường để lau hơi nước trên kính chắn gió. Vợ anh tình nguyện chạy lại phía sau lau kính hậu để khẩn trương tiếp tục lên đường.

Khi Wright quay lại nhìn, vợ anh đã biến mất dù anh không hề nghe hay nhìn thấy điều gì không bình thường diễn ra. Cảnh sát đã mở một cuộc điều tra sau đó nhưng chẳng thu được một bằng chứng hay dấu vết nào, Martha Wright đã “bốc khói” hoàn toàn.

David Lang

Vụ mất tích nổi tiếng diễn ra vào tháng 8/1880 tại một trang trại gần thành phố Gallatin, bang Tennessee (Mỹ) trước sự chứng kiến từ đầu chí cuối của vài nhân chứng. Hai đứa trẻ George và Sarah đang chơi trước sân trong khi bố mẹ chúng, Emma và David Lang, đứng trước cửa nhà.

David băng qua bãi cỏ tiến về phía mấy con ngựa. Cùng lúc đó, một chiếc xe độc mã của thẩm phán August Peck - một người bạn của gia đình Lang - đang chạy tới gần. Thấy vậy, David quay lại nhìn chiếc xe và vẫy vị thẩm phán khi anh băng qua bãi cỏ để quay trở lại. Một vài giây sau, trước sự chứng kiến của vợ, các con và vị thẩm phán, David Lang đã biến mất vào hư không. Emma đã hét lên và tất cả nhân chứng cùng chạy tới nơi David đã đứng, họ nghĩ rằng chỗ đó có một cái hố và David đã rơi xuống, nhưng hoàn toàn chẳng có cái hố nào.

Một cuộc tìm kiếm kỹ lưỡng do bạn bè, gia đình và hàng xóm của David thực hiện chẳng thu lại kết quả. Một vài tháng sau vụ mất tích bí hiểm, hai đứa trẻ nhà Lang để ý thấy cỏ nơi cha chúng biến mất chuyển sang màu vàng và héo đi trong phạm vi đường kính khoảng 4,7 m.

800 lính Anh mất tích trong mây

Trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, vào ngày 21/8/1915, hơn 800 lính thuộc Trung đoàn Norfolk 5 của quân đội Anh được lệnh cơ động lên một ngọn núi cao thuộc vùng Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của các nhân chứng, có một đám mây lớn bay sà xuống và bao phủ lên đoàn quân, lúc đó đang tiến vào thung lũng. Đội quân càng lên cao thì càng chìm dần vào trong khối mây mờ.

Khi người cuối cùng khuất hẳn, cả khối mây đã bốc lên cao và biến mất, người ta không thấy bất kỳ người lính nào bước ra khỏi đám mây đã bay đi đó. Từng ngọn cây, bụi rậm trên đỉnh núi đều có thể nhìn rõ, nhưng một đội quân hơn 800 người đã mất tích hoàn toàn. Khi đó, 22 người lính của New Zealand cũng đang tập cùng trận địa với đội quân này, trên một ngọn đồi nhỏ khác cách đó khoảng 600 m. Họ đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng bí hiểm trên.

Có giả thuyết cho rằng toàn bộ đội quân đã bị lực lượng đặc nhiệm của Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phía Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết khẳng định rằng họ chưa từng nhìn thấy đội quân này. 800 người lính đã bị mất tích không nằm trong danh sách những lính Anh bị tử trận, đồng thời cũng không có trong danh sách tù binh chiến tranh được Thổ Nhĩ Kỳ trao trả sau khi chiến tranh kết thúc.
Ở Trung Quốc, năm 1945, một đoàn tàu chở hàng trăm khách từ Quảng Đông đi Thượng Hải đã biến mất khỏi hành trình khi gần đến ga cuối, không để lại bất kỳ một dấu tích nhỏ nào.

(Siêu Tầm)

Nạn Nhân Titanic xuất hiện sau 80 năm

Giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ gần đây xôn xao về một số vụ mất tích - tái hiện một cách thần bí. Nhiều người cho rằng hiện tượng có liên quan đến “lỗ hổng thời gian”.

Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.

Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.

Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi.
Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.

Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.

Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng chìm xuống biển cùng với con tàu . Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.

Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.

Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào “hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian”.

(Siêu Tầm)

Tuesday, April 7, 2009

LÃO TỬ - ĐẠO ĐỨC KINH

Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ.

Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.
(Ta gọi tiếng "trâu" để chỉ con trâu là do quy ước từ xưa đến nay, tiếng "trâu" không phải là tên bất biến. Nếu từ xưa ta quy ước gọi tiếng "bò" để chỉ con trâu thì ta sẽ gọi con trâu là "bò". Đạo thì không như vậy. Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu).

Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất).

Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ "có", có lại bắt đầu từ "không". Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời.

Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.

Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.
Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không mắc lỗi nên không cần phải biện bạch, người nào phải biện bạch cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết [tri bất ngôn, ngôn bất tri].

Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống. Binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì lại bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.

(Răng cứng thì chóng gãy, lưỡi mềm thì bền lâu - Lão Tử)

Mạnh về dám làm [can đảm, cương cường] thì chết, mạnh về không dám làm [thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường ? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý ? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình.

Lời hứa dễ dàng thì khó tin, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. "Không" có nghĩa là "không có gì" nhưng phải "có cái gì" thì mới có cái "không có". Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình.

Cái gì ở yên thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn sinh ra từ một cái mầm nhỏ; tháp cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Thường gần tới lúc thành công thì lại dễ thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.

Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách "vô vi" (taking no action), luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi.

Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh thần bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].

Khoảng giữa trời đất như cái ống bễ lò rèn; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự yên tĩnh.

(Người giản dị nhất thì không phải là người giản dị.
Người khiêm tốn nhất thì không phải là người khiêm tốn - Lão Tử)


Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng cương cường.

Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.

Ngũ sắc làm người ta mờ mắt; ngũ âm làm người ta ù tai; ngũ vị làm người ta tê lưỡi, hưởng thụ làm cho người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta xấu xa. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.

Trời đất vĩnh cửu. Trời đất vĩnh cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.

Người đắc đạo đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì họ không tư lợi mà thành được việc riêng của mình ư?
Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy.
Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt.

Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gợi ham muốn để lòng dân không loạn.

Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương thì mạnh.

Khiến cho dân không biết, không muốn, bọn thông minh, mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách "vô vi" thì mọi việc đều yên ổn.

Không học thì không phải lo. Đem cái hữu hạn xét cái vô hạn, há chẳng phải là ngốc lắm sao? Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, lòng "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, lòng "vô vi" càng tăng.
Con người có ba vật báu mà tôi ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.

Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn giúp ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.

Người sáng suốt nghe đạo thì cố gắng mà thi hành, người thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tối tăm nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?!

Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy.
Yếu thắng được mạnh, mềm thắng được cứng, ai cũng biết như vậy nhưng không ai thực hành được.

Vật bén nhọn thì dễ gẫy. Giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén thì lại không bén lâu. Nghèo hèn chính là gốc của giàu sang. Vàng ngọc đầy nhà [kim ngọc mãn đường], sao mà giữ nổi ? Nên biết khi nào là đủ [tri túc]. Giàu mà kiêu căng, khoe khoang là tự rước họa vào thân.

Ba mươi nan hoa cùng qui vào một cái bánh xe, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được.

Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà cửa nhà mới dùng để ra vào được, nhờ có cửa sổ mà nhà không tối.
Vậy ta tưởng cái "hữu" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "vô" mới làm cho cái "hữu" có ích.
Vinh hay nhục thì lòng cũng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng rối loạn nữa ?!
Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.

Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn.

Đứng một chân thì không thể đứng được lâu, giang chân ra thì không thể đi được, tự biểu hiện thì không bao giờ chói lọi, tự kể công thì không có công, tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường tồn. Thái độ đó được ví như thức ăn thừa, ung nhọt, người người đều ghét. Thiên bất dung gian.

Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác. Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại.

Biết người là khôn, tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Biết thế nào là đủ là người giàu; biết gắng sức là người có chí. Kẻ nào không rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân.

Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa.
Tuyệt thánh, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở nên hiếu hòa; dứt trí khôn, bỏ lợi lộc, không còn trộm giặc.
Ba cái đó (mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì chỉ là cái vẻ bên ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.

Đạo trời không thiên vị ai, luôn ban ơn cho người có đức - Lão Tử

Giọng kính trọng khác với giọng xem thường bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ thật rộng lớn, không thể nào hiểu hết được.
Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).
Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật ? Là nhờ đạo.

Có câu: "Khiêm tốn là gốc của cao quý". Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.

Có câu: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", há phải hư ngôn! Nên chân thành giữ lấy đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người ? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.

Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.

Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.

(Hết)

Phép chữa bệnh của các Đạo sư

Đây vẫn là một vấn đề gây tranh cãi và chưa được lý giải bằng khoa học nhưng những điều tai nghe mắt thấy dưới đây của một học giả uyên thâm người Bolivia Lama Anagarika Govinda đáng cho ta suy nghĩ.

Lạt ma Ngawang Kalzang nhập thất đã hơn 12 năm nay trong một hang đá hẻo lánh. Không ai biết ngài là ai, không ai nghe đến tên ngài. Ngài chỉ là một tu sĩ trong hàng ngàn tu sĩ sau một thời gian tu trong tu viện đã phát nguyên tu nhật thất. Trong lúc tu thiền, chỉ một vài thú rừng đến quấn quít chung quanh còn ngòai ra tất cả hòan toàn vắng lặng, gần như không một ai đặt chân đến khe núi đã bị đá đổ xuống lắp kín lối vào. Đêm hôm đó, một luồng sét ở đâu bỗng xẹt trúng tảng đá, đánh bật nó qua một bên.

Hôm sau, một người chăn dê đi ngang qua khe núi. Đang mải miết đi bỗng anh nghe tiếng mõ nhịp đều đặn, thỉnh thoảng lại điểm một tiếng chuông. Lúc đầu, người chăn dê hỏang sợ vì tại sao giữa chốn hoang vu này lại có tiếng mõ, mà âm thanh nghe sao lâng lâng thóat tục không giống những tiếng mõ thông thường. Trí tò mò giục anh lần bước theo tiếng mõ vào khe núi…. Người chăn dê nhìn thấy một tu sĩ đang yên lặng ngồi thiền trong động đá, tu sĩ thân thể gầy ốm chỉ còn da bộc xương nhưng khuôn mặt ngài lại tỏa ra một vẻ hiền từ vô tả. Người chăn dê thu hết can đảm bước lại cúi đầu đảnh lễ. Khi tu sỉ đưa tay sờ lên trán người chăn dê thì anh thấy một luồng hơi ấm chạy suốt từ đỉnh đầu xuống gót chân khiến anh cảm thấy lâng lâng một sự bình an. Người chăn dê chạy về làng báo tin. Dân làng không ngờ trong khe núi hiểm trở, hoang vu lại có một vị Lạt ma ẩn tu từ bao năm nay. Truyền thống Tây Tạng rất kính ngưỡng những bậc tu hành như vậy nên cả làng vội vã kéo đến qùi cả dưới chân ngài. Bất cứ ai đến gần ngài cũng đều có được một sự bình an vô tả. Ngay cả những người nổi tiếng nóng nảy cũng thấy lòng mình dịu lại và họ chỉ biết chắp tay cung kính chờ đến khi ngày giơ tay ban phép lành cho họ. Tiếng đồn về vị Lạt Ma có khả năng mang lại sự bình an truyền đi rất nhanh. Chỉ một thời gian ngắn, không những dân chúng trong làng mà cả những làng mạc kế cận đều đổ xô đến khe núi hiểm trở. Lạt ma Kalzang hiểu rằng đã đến lúc ngài phải xuống núi để phổ độ chúng sinh. Ngài trở thành hòa thượng làng Tomo. Sau thời gian trụ trì ở đây, ngài lên đường đi khắp các nước xung quanh dãy Tuyết sơn. Cùng với danh tiếng về việc truyền bá những tư tưởng cao thượng, hòa thượng Tomo còn thể hiện một quyền năng chữa bệnh kỳ lạ. Việc chữa bệnh của những người đạo sư không có gì xa lạ đối với ngừơi Tây phương. Chính đức Chúa Jesu cũng đã từng làm các phép lạ này để đem lại niềm tin cho các tín đồ. Đức tin và quyền năng chữa bệnh liên hệ với nhau vô cùng chặt chẽ. Đức tin là khả năng nhận lãnh. “Quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ đều hòa cơ thể”. Một điểm quan trọng cần nêu lên: ở đây người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hành, một chất xúc tác, một động cơ để các luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó, một tu sĩ diệt ngã không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ hay khoe khoang bất kỳ quyền năng nào. Đa số mọi người đều cho rằng quyền năng là một cái gì đó có thể sở hữu, một phép lạ, một cái đũa thần chỉ đá hóa vàng, hô phong hóan vũ hay bay nhảy lên không trung. Tóm lại, khi sở hữu quyền năng họ có thể làm bất cứ thứ gì theo ý muốn. Đó là một quan điểm ấu trĩ xuất phát từ trí tưởng tượng và lòng tham ít kỷ. Đối với họ, thế giới này là một cái gì phiền phức, một chướng ngại cho bản ngả của họ nên họ phải tìm cách thay đổi nó để hợp ý mình. Đi xa hơn nữa, quan niệm này bắt nguồn từ cái bản ngã kiêu căng, nó nghĩ rằng nó có thể đạt được tất cả những gì nó muốn, mà nó thì muốn rất nhiều. Vì không thể thõa mãn cái tham vọng đó nên nó nghĩ rằng nó cần phải có thêm quyền lực, một thứ quyền lực siêu nhiên do chính nó tưởng tượng ra và gọi đó là “quyền năng”. Một người nhập thất bắt đầu bằng việc diệt ngã. Do công phu tu hành mà họ ý thức rằng quyền năng lớn lao nhất mà họ có thể sở hữu được là việc kiểm soát, chinh phục bản ngã. Khi cái bản ngã không còn, họ không còn thấy thế gian này là một cái gì phiền phức, một thực thể cách biệt với họ nữa mà tất cả chỉ là một. Khi mình và thế gian không còn sai khác, không còn phân biệt thì đời sống trở nên thực tiễn hơn và tất cả mọi sự tầm thường nhất, nhỏ bé nhất đều trở nên màu nhiệm lạ lùng. Việc chữa bệnh thường được gọi như một phép lạ vì nó không được giải thích một cách hợp lý. Thực ra quyền năng chỉ là sự phối hợp những động lực thiên nhiên một cách trực tiếp. Khi bị bệnh, thân thể con người thừơng bị xáo trộn bởi những nguyên nhân khác nhau. Nếu bệnh nhẹ thì chỉ tĩnh dưỡng ít lâu, cơ thể họ có thể hồi phục vì người nào cũng có cái khả năng tự chữa bệnh, tự điều hòa các trật tự sẳn có nơi mình. Bệnh nặng là khi thân thể họ không đủ tái lập cái trật tự ban đầu nữa nên lâm vào tình trạng mất quân bình. Điều này có thể ví như một bình điện bị yếu, không đủ sức làm sáng một ngọn đèn. Quyền năng chữa bệnh là sử dụng những năng lực thiên nhiên rất mạnh để tái lặp trật tự giống như việc tiếp điện (charge) cho một bình điện đã yếu. Trong việc chữa bệnh này, đức tin đóng vai trò như một chất dẫn điện, vì luồng điện chỉ có thể được truyền đi nếu có chất dẫn điện mà thôi. Tóm lại quyền năng chữa bệnh chỉ hiệu lực khi có đức tin, dù đó là đức tin vào một quyền năng nào, vào một cá nhân nào hay một lý tưởng trừu tượng nào. Hòa thượng Tomo sau một thời gian dài nhập thất đã trở lại thế gian truyền bá giáo pháp và chữa bệnh, nhiều người đã kể rằng ngài chỉ cần đặt tay lên trán một người bệnh cũng có thể làm cho họ khỏi bệnh tức thì. Đôi khi ngài cũng phát cho người bệnh một lọai thuốc viên cho chính tay ngài bào chế. Những viên thuốc ấy có giá trị rất lớn lao. Khi từ giã, hòa thượng Tomo có trao cho tôi ba viên thuốc nhỏ để phòng khi hữu sự nhưng ít lâu sau tôi đã tặng hai viên cho Sherab Thubden vì thấy ông già này hay bệnh hoạn. Tôi nghĩ rằng dù tốt đến đâu viên thuốc này cũng chỉ là viên thuốc như trăm ngàn viên thuốc khác, nghĩa là có thể mua được. Mãi về sau tôi mới biết giá trị của những viên thuốc này. Vào khỏang năm 1959, tôi có ghé Rampur, thủ đô của tiểu vương quốc Bashar. Đây là một thành phố mà tất cả dân chúng đều theo Ấn độ giáo, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy giữa thủ đô tráng lệ lại có một ngôi chùa Tây Tạng. Khi vào hành lễ tôi thấy cả một pho kinh Kanjur và Tanjur bày cẩn thận bên cạnh những quả chuông quay. Tôi được vị Lạt Ma trụ trì kể rằng chính tiểu vương Rampur Maharaja đã cho xây dựng ngôi chùa này để hoàn thành một tâm nguyện đối với một Lạt Ma tây tạng. Tiểu vương Rampur Maharaja, mặc dù có nhiều vợ nhưng không có con. Ông đã đi khắp nơi cầu xin các tu sĩ Balamôn nhưng không kết quả. Năm đó có một vị Lạt Ma Tây Tạng đi qua tiểu vương quốc Rampur vì tiếng tăm của vị này vang lừng nên dân chúng khắp nơi kéo đến đón tiếp ngày rất trọng thể. Nhà vua bèn cho mời ngài đến cung điện vị Lạt Ma này đưa ra ba điều kiện: xin bãi bỏ thuế khóa cho dân ba năm, xây dựng một ngôi chùa nhỏ để ông tịnh dưỡng khi có dịp qua đây và cho thỉnh những bộ kinh quý của Tây Tạng lưu giữ về. Dĩ nhiên nhà vua chấp thuận và ngôi chùa Tây Tạng được xây cất ngay bên cạnh cung điện của vua. Vị Lạt Ma Tây Tạng đó nhập thất trong một thời gian dài và sau đó đưa cho nhà vua một lọ thuốc nhỏ. Một năm sau nhà vua có con trai nối dỗi tông đường. Tôi không thể nén lòng được nên hỏi ngay vị Lạt Ma trụ trì: - ;Thế tên vị Lạt Ma đó là gì? - ;Người ta thường gọi ngày là “hòa thượng làng Tomo”. Thỉnh thỏang ngày vẫn ghé qua đây mỗi khi có dịp đi lên rặng núi Kailas. Trong suốt thời gian du hành qua Tây Tạng, tôi đã được nghe kể rất nhiều về công lao của hòa thượng Tomo. Gần như nơi nào ghé đến ngài cũng thuyết pháp độ sinh, chữa bệnh cho những người không thể chữa được và đem lại niềm tin cho hàng trăm ngàn sống dọc theo dãi Tuyết sơn. Tại thành phố Poo, tôi nghe nói một thiếu nữ bị liệt từ nhỏ không thể đứng dậy được đã được ngài chữa khỏi. Khi người ta mang cô này đến trước mặt ngài thì tự nhiên cô ta ngồi bật dậy chấp tay niệm Phật như chưa từng đau ốm bao giờ. Lúc chúng tôi ghé qua Poo thì cô gái đó vẫn còn sống và dân chúng trong làng xác nhận rằng họ đã chứng kiến rõ ràng quyền năng chữa bệnh của Tomo. Tôi không nghi ngờ chút nào về khả năng chữa bệnh của ngài vì tất cả mọi người chung quanh dãi Tuyết sơn người ta đã nói đến ngài với một sự sùng kính sâu xa. Ngay cả sau khi ngài nhập diệt, người ta vẫn còn nhắc nhở đến ngài như một vị đạo sư đã hướng dẫn và mang lại niềm tin cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên thói thường người ta hay thêu dệt huyền thoại cuộc đời của một người nổi tiếng nào nào đó, nhưng hòa thượng Tomo đã là một huyền thoại ngay khi ngài còn sống. Vì tất cả những ai gặp ngài nghe ngài thuyết pháp đều công nhận ngài là một trong số rất ít vĩ nhân đã xuất hiện trên trái đất này.

Cuộc đời của hòa thượng Tomo là một bằng chứng hùng hồn rằng kinh nghiệm tâm linh là kết quả hiển nhiên của một công phu tu hành chứ không phải là điều trừu tượng dựa trên lý thuyết hay một cái gì cao xa không thể đạt đến được.

Phân biệt màu sắc bằng tay


Sergei Fetisov, một người khiếm thị ở thành phố Vladimir, Nga có khả năng đặc biệt: phân biệt màu sắc bằng xúc giác. Ngoài ra, ông còn có thể "thấy" được quầng sáng của một người và biết được người đó bị đau ở đâu.


Sergei bị mù ở tuổi 14 từ một lỗi lầm của chính mình. Do hiếu động, cậu bé nghĩ cách chế tạo một khẩu súng ngắn rồi đem ra bắn thử. Khẩu súng nổ ngay trên tay, một viên đạn bay vào mắt trái và làm tổn thương phần sọ của Sergei. Các bác sĩ cho rằng cậu bé này sẽ không sống nổi, nhưng em đã vượt qua được tuy phải chịu đựng cảnh mù vĩnh viễn. Không còn thấy ánh sáng, nhưng Sergei Fetisov không đầu hàng số phận, ông đã sống và lao động với một nghị lực mạnh mẽ. Ông tham gia Hội những người khiếm thị Nga, học để đọc sách bằng chữ nổi và đảm trách công việc của người giao hàng.

Cách đây vài năm, trong một dịp tình cờ, Sergei phát hiện mình có một năng lực đặc biệt. Một phụ nữ đến Hội người khiếm thị để dạy cho những người mù phân biệt màu sắc bằng xúc giác. Đa số những người ở hội đều không thể nói được màu sắc từ tấm thẻ của bà đưa ra, chỉ có Sergei là phân biệt được cả. Sau giai đoạn rèn luyện kiên trì, Sergei đã thành thạo trong việc phân biệt màu sắc bằng cách sờ lên một vật. Tuy nhiên, không phải ai cũng tin vào khả năng đặc biệt của Sergei, ngay cả những người bạn thân của ông cũng hoài nghi về khả năng phân biệt màu sắc bằng những ngón tay này. Họ thường tìm dịp để thử tài ông.

Có lần, một người phụ nữ quen đến đánh đố Sergei về màu tóc của bà. Sergei nắm lấy mớ tóc, giữ nó trong tay thật lâu mà chưa nói được chính xác màu gì. Sau đó, ông lúng túng nói: "thật ra tóc của chị có nhiều màu... Hơi lạ là nó có cả màu đỏ, trắng và đen". Nghe thế, người phụ nữ phá lên cười. Bà nói rằng đã nhuộm tóc với nhiều màu cách nay không lâu. Và Sergei đã nói đúng các màu trong số nhiều màu tóc kỳ quặc đó.

Không lâu sau, Sergei đã làm cho mọi người ngạc nhiên khi ông bộc lộ một số năng lực khác nữa, ví dụ như có thể "thấy" được hào quang phát ra của một người và nói được người đó đang bị đau ở đâu. Ông nhấn mạnh rằng mình không thể chẩn đoán bệnh mà chỉ cảm nhận được khi người đối diện bị nhức đầu hay đau răng. Ông thấy được quầng sáng bằng cách sờ vào đối tượng. "Quầng sáng của mỗi người mỗi khác, nhưng nó không bao giờ là đơn sắc. Hào quang tốt thì sáng, màu vàng hay đỏ, còn hào quang xấu thì có màu đen hay nâu", ông giải thích. Sergei cho rằng mình không phải là một thuật sĩ. Theo ông, đôi khi người ta phát lộ một kỹ năng đặc biệt sau khi bị một chấn thương nghiêm trọng nào đó.

Hiện nay, Sergei tận dụng mọi cơ hội để đi du lịch và hoạt động thể thao như bơi lội, chạy bộ. Chơi cờ là sở thích mới của ông. Ông có thể dùng những quân cờ bình thường để chơi vì phân biệt được màu sắc của chúng bằng những ngón tay. Trưởng phòng kiểm tra sự hồi phục thuộc Hội người khiếm thị, Andrey Bannikov cho rằng những ngón tay của người mù có độ nhạy cảm rất cao. Họ có thể đọc sách bằng chữ nổi rất nhanh, một số người còn có thể đọc được những bản chữ đã mòn, nhưng dùng những ngón tay phân biệt được màu sắc là chuyện ông chưa hề nghe thấy trước đây. Không ai trong số 202.000 người mù của hội có thể chứng tỏ được tài năng đặc biệt này, trừ Sergei Fetisov. Và năng lực này của ông có thể liên quan đến lĩnh vực thần bí mà con người chưa giải mã được.

VANGA - Nữ tiên tri mù Bungary

Năm 1980, Vanga - một phụ nữ mù Bungary đã tiên đoán khoảng năm 2000, Kursk sẽ ngập chìm trong nước. Bà cũng từng có linh cảm về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ. Một trong những tiên đoán gây sốc nhất là vào năm 1980, khi bà Vanga nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, khoảng tháng 8/1999 hoặc 2000, Kursk sẽ ngập chìm trong nước và cả thế giới sẽ rơi lệ vì điều đó”. 20 năm sau lời tiên đoán đã ứng nghiệm một cách kinh hoàng. Vào đúng tháng 8/2000, một tàu ngầm nguyên tử của Nga được đặt tên theo thành phố Kursk đã gặp một tai nạn khủng khiếp và chìm đắm dưới đại dương.
Khả năng phi thường sau tai nạn:

Vanga (Vangelia) Pandeva sinh ngày 31/1/1911 và mất ngày 11/8/1996. Bà sống tại thành phố Petrich, Bungary và khi chết, được an táng tại sân nhà thờ Saint Petca vùng Rupite. Năm 12 tuổi Vanga đã bị một cơn lốc cuốn đi và sau đó người ta tìm thấy bà còn sống sót dưới lớp đất, đá, mắt dính đầy cát. Sau đó những ngày còn lại trong cuộc đời của Vanga chỉ là màn đêm. Vanga bắt đầu có khả năng tiên đoán từ năm 16 tuổi khi bà giúp cha mình tìm lại được con cừu bị đánh cắp. Bà có thể miêu tả một cách tỉ mỉ, chính xác nơi con vật bị bọn trộm cất giấu. Khả năng tiên đoán phi thường của bà càng thể hiện rõ sau tuổi 30. Đã có rất nhiều chính khách từng viếng thăm Vanga. Có lần Adolf Hitler đã đến gặp bà, sau đó người ta thấy ông ta ra về với vẻ mặt rất rầu rĩ.

Không có nhiều người tin vào tiên đoán của những nhà tiên tri. Tuy nhiên, người ta không thể làm ngơ khi những tiên đoán đó thành hiện thực. Vanga trở nên nổi tiếng vì những tiên đoán “thần thánh” của bà về những thảm họa toàn cầu. Độ chính xác của những lời tiên tri này khiến loài người giật mình hoài nghi: Liệu có thực sự tồn tại một thế lực siêu nhiên? Biết bao giấy mực đã cất công nghiên cứu để giải đáp về “bí ẩn Vanga”.

Ví dụ, Vanga từng tiên đoán về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 ở Mỹ, khi bà nói rằng “người Mỹ sẽ ngã xuống dưới sự tấn công của những con chim sắt”. Nhà tiên tri cũng dự đoán chính xác sự bùng nổ Đại chiến thế giới thứ 2, cải tổ kinh tế chính trị ở Liên bang Xô Viết cũ, cái chết của công nương Diana và thậm chí vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk.

Năm 1980, nhà tiên tri mù nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, tháng 8 năm 1999 hoặc năm 2000, Krusk sẽ ngập chìm trong nước, cả thế giới sẽ đau buồn về điều này”. Ở thời điểm đó, người ta không mấy bận tâm đến lời tiên liệu trên. Tuy nhiên, 20 năm sau, loài người đã phải sững sờ kinh ngạc. Một tàu ngầm nguyên tử của Nga gặp nạn tháng 8/2000. Toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng dưới đáy đại dương. Và kỳ lạ thay, con tàu xấu số được đặt theo chính tên thành phố Krusk.
Lời tiên đoán và sự thật kinh hoàng:

“Đáng sợ! Đáng sợ! Những anh em đồng đạo của Hoa Kỳ sẽ ngã xuống sau khi bị những con chim sắt tấn công. Những con sói sẽ gầm rú trong lùm cây và máu của những người vô tội sẽ chảy”. (1989). Và điều đó đã xảy ra như dự đoán. Tòa Tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (New York) đã đổ sập bởi vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001. Tháp đôi cũng có nghĩa khác là “sinh đôi” (Twins) hay còn gọi là anh em. Những kẻ khủng bố đã khống chế toàn bộ hành khách trên máy bay - “những con chim sắt” và lao vào tòa tháp. Lùm cây trong tiếng Anh có nghĩa là “bush” nên ở đây có thể cũng ám chỉ đến tên của vị Tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ, ông Bush.

“Vô số thiên tai và thảm họa sẽ xảy ra với loài người. Tâm lý con người sẽ bị thay đổi và họ sẽ bị chia rẽ bởi chính niềm tin của họ…”. Lời tiên đoán đó có vẻ cũng đã ứng nghiệm. Những thời điểm tồi tệ theo tiên đoán đã đến. Một điều gì đó đang xảy ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý chung của chúng ta khi thảm họa sóng thần cuối năm 2004 cướp đi hàng chục ngàn sinh mạng. Giờ đây chúng ta đang phải chứng kiến hàng loạt các cuộc tấn công khủng bố, xung đột sắc tộc đẫm máu.

“Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện trọng đại đáng mừng. Hai nhà lãnh đạo vĩ đại đã bắt tay”. Hai nhà lãnh đạo ở đây đã được ám chỉ là Gorbachev và Reagan. Thế nhưng chúng ta vẫn còn phải đợi khá lâu mới đến Tám Một, khi đó hòa bình trên trái đất mới được xác lập”. (Tháng 1/1988). Nếu lời tiên đoán đó ứng nghiệm thì phải chăng Tám Một ở đây được ám chỉ việc Nga gia nhập nhóm G7 và bây giờ là nhóm G8, khi 8 là 1 rất có thể những bước tiếp theo là những nỗ lực cho hòa bình trên thế giới.

“Mọi thứ sẽ tan chảy như đá trước ánh hào quang của Vladimir. Nga không chỉ sống sót mà còn chi phối thế giới”. Điều này dường như cũng đang ứng nghiệm với một nước Nga đang trỗi dậy dưới thời của Tổng thống Vladimir Putin.
Cuộc đời là những thước phim:

Vanga không biết chữ, bà cũng chưa từng viết một cuốn sách nào. Giọng nói của bà rất khó nghe và nặng thổ ngữ. Những gì Vanga nói hoặc được cho là do bà tiên đoán chủ yếu được ghi chép lại bởi những người xung quanh bà. Sau này, vô số những quyển sách bí truyền về cuộc đời và những tiên đoán của Vanga đã được viết ra.

Theo Vanga thì khả năng phi thường của bà liên quan đến sự hiện diện của những sinh vật vô hình, dù bà không thể giải thích rõ ràng nguồn gốc của chúng. Những sinh vật đó cho bà thông tin về con người. Cuộc sống của tất cả mọi người đứng trước bà hiển hiện giống như những thước phim từ lúc sinh ra đến khi nằm xuống. Tuy nhiên bà không có quyền năng thay đổi số phận.

Vanga từng dự đoán về những đứa trẻ mới chào đời và cả những sinh linh chưa ra đời. Bà cũng tuyên bố rằng bà đang “nhìn thấy” và “nói chuyện” với những người đã chết cách đây hàng trăm năm. Vanga thậm chí bảo rằng những người ngoài hành tinh đã đang sống trên trái đất từ rất lâu rồi. Họ đến từ những hành tinh mà ở đó dùng thứ ngôn ngữ Vamfirm.

Những người theo Vanga tin rằng bà biết chính xác ngày chết của mình. Và chỉ không lâu trước ngày đó, bà nói có một cô bé tóc vàng 10 tuổi sống ở Pháp sẽ thừa hưởng những khả năng trời phú của bà, và rằng loài người sẽ sớm tìm ra cô bé đó.
Những lời tiên đoán kinh hoàng về tương lai:

Theo lời của Vanga, trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ. Những cuộc xung đột ở Indostan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.

Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.

Năm 2011 - Không một loài động vật, thực vật nào ở Bắc bán cầu có thể sống được do kết quả của quá trình lắng cặn chất phóng xạ. Tiếp đó, những người Hồi giáo (người theo Đạo Hồi) sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh hóa học chống lại người Châu Âu.

Năm 2014 - Phần lớn loài người sẽ bị mắc chứng bệnh mưng mủ, ung thư da và các loại bệnh khác về da do hậu quả cuộc chiến tranh hóa học.

Năm 2016 - Châu Âu gần như không có người sinh sống.

Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản.

Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi.

Năm 2025 - Xuất hiện một bộ phận nhỏ người di cư đến Châu Âu.

Năm 2028 - Loài người sẽ tạo ra một nguồn năng lượng mới, kiểm soát được các phản ứng nhiệt hạch và nạn đói dần dần được khắc phục. Cũng trong thời gian này, con tàu vũ trụ có người lái lần đầu tiên sẽ đổ bộ lên sao Kim.

Năm 2033 - Băng ở các vùng cực sẽ tan chảy. Mực nước ở Thái Bình Dương sẽ dâng cao.

Năm 2043 - Nền kinh tế thế giới phát triển rất phồn thịnh. Người Hồi giáo sẽ cai trị toàn bộ lãnh thổ Châu Âu.

Năm 2046 - Bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể người điều có thể được tiến hành cấy ghép. Việc thay thế các cơ quan trong cơ thể sẽ trở thành một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu nhất.

Năm 2066 - Trong lúc tấn công thành Roma của người hồi giáo, Mỹ sẽ lợi dụng một loại hình vũ khí mới - vũ khí thời tiết. Trong thời gian này, trời trở lạnh đột ngột.

Năm 2076 - Xã hội không giai cấp hay còn gọi là Chủ nghĩa Cộng sản hình thành.

Năm 2084 - Loài người Sẽ khôi phục lại thiên nhiên.

Năm 2088 - Xuất hiện một căn bệnh lạ “lão hóa chỉ trong vài giây!!!”.

Năm 2097 - Căn bệnh lão hóa khủng khiếp này sẽ lan tràn trên toàn cầu.

Năm 2100 - Loài người sẽ tạo ra những mặt trời nhân tạo chiếu sáng phần tối của quả đất.

Năm 2111 - Con người sẽ trở nên kiệt sức.

Năm 2123 - sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh giữa những nước nhỏ.

Năm 2125 - Tại Hung-ga-ri, người ta sẽ nhận được những tín hiệu lạ từ vũ trụ. Cùng thời gian này, loài người lại một lần nữa tưởng nhớ về nữ tiên tri Vanga.

Năm 2130 - Nhiều vùng đất sẽ bị ngập trong nước.

Năm 2164 - Con người sẽ biến thành một loài động vật kinh dị (nửa người, nửa thú).

Năm 2167 - Xuất hiện tôn giáo mới.

Năm 2170 - Xảy ra một đợt hạn hán kéo dài trên Trái đất.

Năm 2187 - Hai miệng núi lửa lớn nhất thế giới sẽ ngừng quá trình phun trào nham thạch.

Năm 2195 - Những quốc gia dọc bờ biển sẽ trở nên khá giả cả về năng lượng lẫn lương thực.

Năm 2196 - Người Châu Á và Châu Âu sẽ sinh sống trà trộn nhau.

Năm 2201 - Quá trình phản ứng nhiệt hạch trên Mặt trời sẽ chấm dứt và bắt đầu thời kỳ nguội lạnh.

Năm 2221 - Trong quá trình tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất, loài người sẽ có cuộc chạm trán rùng rợn.

Năm 2256 - Tàu vũ trụ mang một căn bệnh khủng khiếp về Trái đất.

Năm 2262 - Quỹ đạo của các hành tinh dần bị thay đổi. Cũng thời gian này, sao Chổi sẽ đe dọa đến sự sống còn của sao Hỏa.

Năm 2271 - Các hằng số vật lý lại một lần nữa bị thay đổi.

Năm 2273 - Xảy ra sự xáo trộn giữa các chủng tộc da màu: da vàng, da trắng và da đen. Tiếp đó sẽ xuất hiện các chủng tộc mới.

Năm 2279 - Loài người sẽ lấy năng lượng từ khoảng chân không hoặc từ những lỗ đen.

Năm 2288 - Xuất hiện những cuộc va chạm với người ngoài hành tinh.

Năm 2291 - Mặt trời trở nên nguội lạnh và sau đó lại bùng cháy trở lại.

Năm 2296 - Mặt trời hoạt động mạnh hơn, lực hút vũ trụ bị thay đổi làm cho các trạm vũ trụ và vệ tinh rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng.

Năm 2299 - Tại Pháp xuất hiện một Đảng mới chống lại người theo Đạo hồi.

Năm 2302 - Phát hiện quy luật và bí mật mới của vũ trụ.

Năm 2304 - Khám phá bí mật Mặt trăng

Năm 2341 - Xuất hiện một thiên thể vô cùng nguy hiểm tiến gần Trái đất.

Năm 2354 - Một trong những mặt trời nhân tạo bị hỏng, kết quả dẫn tới đợt hạn hán kéo dài.

Năm 2371 - Xẩy ra nạn đói lớn.

Năm 2378 - Các bộ tộc mới nhanh chóng được hình thành.

Năm 2480 - Hai mặt trời nhân tạo va vào nhau, Trái đất bị rơi vào tình trạng hỗn loạn.

Năm 3005 - Xuất hiện các “cuộc chiến” mới trên sao Hỏa, quỹ đạo của các hành tinh bị rối loạn.

Năm 3010 - Sao chổi sẽ va vào Mặt trăng, quanh Trái đất lúc này xuất hiện một vành đai toàn đá và bụi.

Năm 3797 - Đây là thời kỳ kết thúc sự sống trên Trái đất. Thời gian này cũng là cơ sở để loài người bắt đầu cuộc sống mới trên một “hệ Mặt trời” khác.

Có người nói cứ mỗi lần khủng hoảng kinh tế là lại có 1 đại chiến thế giới? Liệu điều này có đúng chăng? WW III vào năm 2010? Hiện giờ Bắc Triều Tiên đang phóng tên lửa, mâu thuẫn gay gắt giữa Nhật va Mỹ, liệu là điềm báo cho một tương lai đen tối...
Lời khuyên của Vanga:

“Những thứ tưởng như rất đáng sợ và nguy hiểm lại không đáng sợ. Những thứ mà sự nguy hiểm và đáng sợ của nó không thể hiện ra bên ngoài mới đáng sợ. Nó có thể gây ra một điều gì đó nghiêm trọng làm xáo trộn cuộc sống chúng ta”.

Những điều Vanga tiên đoán về tương lại có trở thành sự thật hay không? Khi bà biết được đúng ngày chết của mình, trước khi chết các Bác sĩ bắt đầu làm phẫu thuật mở khí quản cho bà, họ rạch ở họng để đưa vào thanh quản ống của thiết bị thông phổi nhân tạo. Khi phẫu thuật mới chỉ được bắt đầu, đột nhiên điện bị cúp…

Đó là sự trùng hợp rất lạ lùng. Bệnh viện đa khoa của chính phủ là bệnh viện lớn nhất ở Xofia, ở đó có nguồn điện dự trữ và máy phát riêng. Tại sao năng lượng lại bị mất vào đúng thời điểm người ta đang phẫu thuật cho Vanga? Ai đã ngắt lưới điện, đến bây giờ điều đó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Họ hàng của bà nghi ngờ rằng, việc nhà tiên tri 86 tuổi không kịp nói những lời cuối cùng của mình, rất quan trọng đối với ai đó?

Những sự trùng hợp kỳ lạ

Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh bí ẩn của số phận.
Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ là trò chơi của sự ngẫu nhiên hay khoa học có những lý thuyết khác về vấn đề này?

- Ngày 28/7/1900, Vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua, trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng diễn ra trong cùng một ngày, còn nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng. Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sang ngày hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ lòng tiếc thương và chỉ vài giờ sau ông bị một kẻ vô chính phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở điểm 2 người chết ở những nơi khác nhau.

- Vào năm 1944, vài ngày trước khi quân đồng minh đổ bộ lên Normandy, trên tờ Daily Telegraph ở Anh có in một trò đoán ô chữ “vô hại”, nhưng đáp án của nó là mã của chiến dịch mấu chốt trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí cả tên của chiến dịch nhảy dù Overlord. Tình báo Anh đã phải sửng sốt: chiến dịch có thể sẽ hoàn toàn đổ vỡ. Tuy nhiên, người ta tìm hiểu được là các ô chữ này do một thầy giáo phổ thông không liên quan gì tới vấn đề quân sự lập ra.

- Vào năm 1896, nhà văn viễn tưởng Morgan Robertson đã xuất bản ở London cuốn tiểu thuyết Cái chết của Titan về chuyến đầu tiên và cũng là cuối cùng của chiếc tàu thủy chở khách lớn nhất thế giới, đã lâm nạn vì đụng vào núi băng trôi. Chiếc tàu hư cấu “Titan” và chiếc “Titanic” có trên thực tế, bị chìm vào năm 1912, giống nhau cả về vẻ ngoài và các điểm đặc trưng của tàu, thậm chí giống cả về số nạn nhân. Chiếc “Titan” được viết trong sách cũng lâm nạn vào tháng 4/1912...

- Ngày 6/8/1978, vào 21h40, chiếc đồng hồ báo thức yêu thích của Giáo hoàng Paolo VI bỗng nhiên rung chuông. Nó đã hoạt động suốt 55 năm mà không hỏng hóc gì và vẫn được đặt vào 6 giờ sáng, nhưng chính vào thời điểm đó chủ nhân của nó đã kết thúc cuộc sống trên thế gian.

- Nghệ sĩ nổi tiếng Antony Hopkins, khi nhận vai trong phim Những cô gái ở đường Petrovka, đã không sao tìm mua được cuốn tiểu thuyết này, nhưng ông lại nhặt được trên chiếc ghế ngoài đường chính cuốn sách như vậy với lời đề tặng của tác giả dành cho đạo diễn phim.

- Làm sao có thể giải thích sự trùng hợp ngẫu nhiên số phận bi thảm của các tổng thống Mỹ được bầu lên trong những năm có số kết thúc bằng số 0? Các tổng thống Lincoln (1860), Garfield (1880), McKinley (1900), đều bị giết, Harrison (1840) chết vì viêm phổi, Roosevelt (1940) chết vì viêm tủy xám, Harding (1920) bị nhồi máu nặng. Tổng thống Reagan bị mưu sát vào năm 1980. Trong năm 2000 ông Bush bước vào Nhà Trắng. Số phận đã bảo vệ bản thân ông, nhưng chính trong thời gian ông cầm quyền, tại Mỹ đã xảy ra vụ khủng bố ngày 11/9 khủng khiếp nhất trong lịch sử.

Saturday, April 4, 2009

Boriska - Cậu bé từ sao Hỏa

Ngày 11/1/1996, một bé trai khác thường đã ra đời tại thành phố nhỏ Volzhsky, vùng Volgograd của Nga. Bà Nadezhda Kipriyanovich hạ sinh cậu bé vào một buổi sáng đẹp trời.


"Tất cả diễn ra một cách nhanh chóng và tôi không cảm thấy đau đớn gì cả. Khi các nữ hộ sinh cho tôi xem đứa bé, nó nhìn tôi với ánh mắt của một người lớn. Là bác sĩ khoa Nhi, tôi biết rằng trẻ sơ sinh không thể tập trung ánh nhìn như thế. Nhưng đứa con của tôi nhìn tôi với cặp mắt nâu mở to. Ngoài điều đó ra, nó là một đứa bé bình thường như bao đứa bé khác", bà nhớ lại. Khi hai mẹ con từ bệnh viện phụ sản về, bà bắt đầu chú ý đến những điều kỳ lạ ở cậu con. Đứa bé được đặt tên là Boris, hiếm khi khóc và hầu như không bị bệnh. Nó lớn lên như bao đứa trẻ khác, nhưng bắt đầu nói tròn câu khi mới được 8 tháng tuổi. Khi chơi trò xếp hình, Boris làm rất hoàn chỉnh với độ chính xác rất cao. "Tôi có một cảm giác kỳ lạ là chúng tôi như những người khách lạ với nó, trong khi nó đang cố gắng hình thành mối quan hệ tiếp xúc với mọi người", bà mẹ nói. Khi Boris hay Boriska, như cha mẹ cậu gọi một cách trìu mến, lên hai tuổi, cậu bắt đầu vẽ tranh, đầu tiên là những bức vẽ trừu tượng trộn lẫn giữa màu xanh và màu tím. Xem xét các bức vẽ này, một số nhà tâm lý nói rằng cậu bé có thể tìm cách vẽ hào quang của những người mà cậu thấy xung quanh. Khi chưa tròn 3 tuổi, Boris bắt đầu nói chuyện với cha mẹ về vũ trụ. Bà Nadezhda cho biết: "Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Đầu tiên, tôi tỏ ra sợ hãi và nghĩ rằng con mình bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. Tìm xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của mình biết rất nhiều về môn khoa học này". Tiếng đồn về nhà thiên văn học tí hon lan nhanh khắp thành phố. Boris bỗng dưng trở thành người nổi tiếng. Nhiều người hiếu kỳ tìm đến và muốn biết vì sao cậu lại biết nhiều điều đến vậy. Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3 m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu. Mọi người lắng nghe cậu bé nói với sự thích thú nhưng phần đông không tin tưởng mấy vào những câu chuyện này. Cha mẹ Boriska quyết định làm lễ rửa tội cho con trai của mình. Qua những diễn biến trên, họ nghĩ rằng có một cái gì đó không ổn nơi Boriska. Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuý, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến. Nadezhda để ý rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. "Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp chìm, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này", bà nhớ lại. Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. "Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp". Boriska hoàn toàn lạc quan về tương lai của nước Nga. "Tình hình trong nước dần được cải thiện. Tuy nhiên, hành tinh trái đất sẽ trải qua hai năm nguy hiểm là 2009 và 2013. Những thảm họa này có liên quan đến nước" - cậu bé tiên đoán. Gần đây, Boriska đã khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga, đã chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé. Giáo sư Vladislav Lugovenko cho biết: "Cậu ta có ảnh phổ màu da cam - điều này cho thấy cậu là một người vui vẻ, rất thông minh. Có một lý thuyết, theo đó não của người có hai loại trí nhớ cơ bản: trí nhớ hoạt động và trí nhớ biệt lập. Một trong những khả năng đáng chú ý nhất của não người là lưu trữ thông tin về trải nghiệm, cảm xúc và những tư duy cả trong lẫn ngoài, từ không gian thông tin của vũ trụ. Có một số cá nhân đặc biệt có thể thu thông tin từ khu vực này. Theo quan điểm của tôi, mỗi người được kết nối với không gian bằng những phương tiện kênh năng lượng". Theo Lugovenko, người ta có thể đo được năng lực ngoại cảm của con người với sự giúp đỡ của các thiết bị đặc biệt. Các nhà khoa học hiện đại trên khắp thế giới đã thực hiện các công trình nghiên cứu trong nỗ lực giải mã bí ẩn của những đứa trẻ phi thường. "Boriska là một trong những đứa trẻ phi thường đó. Dường như chúng có một sứ mệnh quan trọng nhằm thay đổi hành tinh chúng ta. Một số có chuỗi xoắn ốc ADN rất tốt, giúp chúng có hệ miễn dịch mạnh một cách đáng kinh ngạc, có thể đánh bại cả bệnh AIDS. Tôi đã gặp những trẻ em như vậy ở Trung Quốc, Ấn Độ... Tôi chắc rằng chúng sẽ thay đổi tương lai của nền văn minh chúng ta", ông nói. Trong khi các cơ quan không gian hàng đầu thế giới đang cố gắng tìm kiếm dấu vết sự sống trên sao Hoả, cậu bé Boriska, 9 tuổi đã kể với cha mẹ và bạn bè của cậu mọi thứ về nền văn minh trên đó. Một nhà báo Nga gần đây đã trò chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu: - Xin chào Boriska, cậu thực sự đã từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại? - Vâng, đó là sự thực. Tôi còn nhớ thời điểm khi tôi đã 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu hình tròn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu hình tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ. - Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không? - Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đã mất khí quyển vì thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic. - Những người sao Hoả trông thế nào? - Họ rất cao, cao hơn 7 m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường. Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: "Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ý rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng". Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước.
Nguồn: vnexpress.net

Vũ trụ kỳ lạ

Theo nhà du hành vũ trụ Nga Georgi Mikhailovich đôi khi từ trên vũ trụ có thể nhìn thấy những hiện tượng lạ lùng. Anh kể: “Một lần chúng tôi bay trên bầu trời Mông Cổ thì đột nhiên nhìn thấy một hình người khổng lồ có chiều cao phải đến 100, thậm chí 200km. Chúng tôi nhìn thấy rõ đầu, hai tay và hai chân người đó. Chúng tôi gọi đấy là ‘người tuyết’ bởi vì chính là tuyết đã tạo ra hình người ấy”.

Trong hơn 40 năm qua đã có hơn 400 nhà du hành vũ trụ thuộc nhiều nước khác nhau bay trên quỹ đạo quanh trái đất. Họ tiếp xúc với nhiều hiện tượng mới lạ, kể cả những hiện tượng bí ẩn. Nhưng thường thường họ thích im lặng về những gì không thể giải thích nổi. Vả lại người ta cũng không khuyên họ tâm sự về vấn đề này. Tuy nhiên, theo lời đồn đại thì nhà du hành vũ trụ đầu tiên Yuri Gagarin có lần lỡ lời nói rằng, nếu được phép thì anh sẽ kể "nhiều điều thú vị về chuyến bay của mình". Dưới đây là một số "điều thú vị" mà Giáo sư Kirill Butusov đã lượm lặt được qua lời kể của các nhà du hành vũ trụ. Từ trên vũ trụ nhìn thấy được cả ngôi nhà nhỏ trên mặt đất Người đầu tiên nhận thấy “hiệu ứng phóng đại các vật thể trên mặt đất” là nhà du hành vũ trụ Mỹ Gordon Cuper. Ông kể rằng khi bay trên bầu trời Tây Tạng, ông nhìn thấy bằng mắt thường những ngôi nhà và những công trình xây dựng khác tại đây. Điều này thật bí ẩn vì từ khoảng cách 300 cây số thì hoàn toàn không thể phân biệt nổi những vật thể như vậy. Nhà du hành vũ trụ Nga Vitali Sevastjanov đã cung cấp thêm bằng chứng nữa: “Rút cuộc, hôm nay tôi đã thấy Sôchi. Tôi nhìn thấy rõ mồn một hải cảng và ngôi nhà nhỏ hai tầng của chúng tôi”. Hiệu ứng phóng đại này còn được nhà du hành vũ trụ Nga Yuri Glazkov xác nhận: “Chúng tôi bay trên bầu trời Brazil. Đột nhiên tôi nhìn thấy một dải hẹp trên đường xa lộ. Trên đường là một chiếc xe buýt đang phóng nhanh, thậm chí tôi còn nhận thấy chiếc xe có màu xanh”. Tiếng chó... sủa trên bầu trời Những âm thanh bí ẩn trong vũ trụ đã được miêu tả đầy chất thơ qua lời kể của nhà du hành vũ trụ Nga Vladilav Volkov (anh hy sinh khi trở về trái đất năm 1971): “Màn đêm đen đang trôi vùn vụt ở phía dưới. Đột nhiên từ khoảng màn đêm ấy bỗng vọt lên tiếng chó sủa. Tôi cảm thấy dường như đó là tiếng con chó Laika của chúng ta (đã bị chết trong vũ trụ). Sau đó tôi nghe thấy rành rọt tiếng trẻ con khóc và những tiếng gì đó nữa. Không thể giải thích được mặc dù cảm thấy rất rõ ràng”. Theo lời kể của nhạc trưởng dàn nhạc điện tử Viacheslav Mesherin thì Yuri Gagarin sau khi nghe dàn nhạc của ông biểu diễn đã nhận xét là khi ở trên quỹ đạo, anh đã nghe thấy một giai điệu rất giống giai điệu mà dàn nhạc của ông vừa biểu diễn. “Người vô hình” đứng sau lưng Đôi khi trên quỹ đạo xuất hiện “hiệu ứng hiện diện”. Vào một thời điểm nào đấy, nhà du hành vũ trụ đột nhiên cảm thấy như có ai đó vô hình phía sau lưng đang nhìn chằm chằm vào gáy mình rồi thì thầm lên tiếng. Những tiếng thì thầm ấy vang lên từ đâu đó trong đáy sâu ý thức, đại để như sau: “Ngươi đến đây quá sớm và như vậy là không đúng. Hãy tin ta bởi vì ta là tổ tiên của ngươi. Ngươi không nên có mặt ở đây mà hãy mau mau trở về trái đất, chớ vi phạm những quy luật của tạo hóa” (?). Và để tăng thêm phần thuyết phục, giọng thì thầm đó thường kể một câu chuyện mà chỉ gia đình nhà du hành đó được biết và có liên quan đến bậc tổ tiên này. Vậy ai đã thì thầm như vậy trên độ cao hàng trăm kilômet? Và không rõ thực hư chuyện này ra sao? Câu chuyện trên đây là do một nhà du hành vũ trụ đề nghị giấu tên kể lại cho Giáo sư Kirill Butusov. Theo lời giáo sư thì nhà du hành vũ trụ đó khẳng định rằng, anh không phải là người duy nhất nghe thấy những tiếng thì thầm như vậy khi bay trên quỹ đạo. Biến thành khủng long Người đầu tiên công khai về hiện tượng này vào năm 1995 tại Viện Quốc tế sinh thái nhân chủng vũ trụ là nhà du hành vũ trụ Sergei Krichenski. Hóa ra khá nhiều nhà du hành vũ trụ cảm thấy những cảm giác lạ lùng trong khi bay trên quỹ đạo. Chẳng hạn, có người đột nhiên cảm thấy mình ra khỏi hình hài con người rồi biến thành con vật nào đó. Hơn thế nữa, anh dường như được ghép nối với một nguồn thông tin lạ và nhận được những lời cảnh báo về các tình huống có thể xảy ra. Thậm chí, một đồng nghiệp của Krichenski đã có lần kể cho anh nghe về việc mình biến thành... khủng long. Hơn nữa anh ta còn cảm thấy như mình đang bước trên một hành tinh nào đó, thỉnh thoảng lại vượt qua ghềnh thác, vực thẳm (?).

Nhiều nhà du hành vũ trụ ghi nhật ký trong suốt thời gian bay trên quỹ đạo, họ ghi chép cả về những hiện tượng bí ẩn, thậm chí “hoang đường”. Nhưng họ kiên quyết không công bố những ghi chép ấy vì sợ bị mọi người không tin. Nhưng một số nhà khoa học, chẳng hạn như Giáo sư Kirill Butusov lại cho rằng cần nghiên cứu những hiện tượng có vẻ như kỳ lạ ấy. Những cuộc nghiên cứu như vậy sẽ không chỉ góp phần bảo đảm an ninh cho các chuyến bay mà rất có thể sẽ hé mở thêm phần nào bức màn bí mật của vũ trụ.

Football Life 2023

Football Life được làm lại từ bảng PES 2021 do SmokePatch thực hiện, chỉ dành cho chơi offline. Bảng download tổng hợp bao gồm: Base 1.0 Upd...