Wednesday, September 30, 2009

Tứ Niệm Xứ

Tứ Niệm Xứ

Ðịnh Nghĩa Về Tứ Niệm Xứ

TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là:

Quán Thân bất tịnh
Quán Tâm vô thường
Quán Pháp vô ngã
Quán thọ thị khổ.

1. Quán thân bất tịnh: Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát cho thấu đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất tịnh nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường tận về sự dơ bẩn của cái thân ta.

Nói cái thân là bất tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật đã nói quá đáng.

trong đời còn cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng lụa, là, gấm vóc; người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dàm làm tất cả những việc bát nhân tổn đức để cho nó được sung sướng. Cái thân được quí chuộng, tôn trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe được.

Song bình tĩnh mà xét lại, cái thân nầy thật không có gi là trong sạch cả. Ngay từ khi mới đầu thai, cái thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là do hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi dần dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu me nhơ nhớp.

Về sau, nhờ sự duy trì của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập trong một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhừ những thực phẩm phần nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn dần. Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ, mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi cổ cách một đem đẽ biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra thì không ai chịu nổi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nó đâu xa, cái thân nầy vài ngày chưa tắm đã thấy bẩn thỉu, rít rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc, đã nghe có mùi hôi rồi. Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất tịnh như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi...lắm chuyện nhơ nhớp. Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một đống nào bọc chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi, bong bóng...như thế nào, thì các bộ phận trong cơ thể ta cũng chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng đủ thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân.

Ðó là mới nói khi lành mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào mũi, thúi tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là kh ai dám lại gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long, lưng còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu ớt, không còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài thì lại càng nhớp nhúa hơn nữa.

Ðến khi chết, nghiệp thức không còn duy trì để thay lớn mới đổi lớp cũ, thì da thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín, thì ruồi bọ, troi giòi rúc rỉa, mùi hôi thúi xông lên không ai chịu nổi.

Vậy cái thân nầy quả thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó đủ điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét; làm nô lệ cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp kiếp không dứt. Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng vì thân mà sát, đạo, dâm sinh ra; cũng vì thân mà cọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu hoành hành. Trăm ngàn vạn điều lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân nầy mà tạo thành ra.

vậy hành giả cần phải quan sát rõ cái thân là bất tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ai. Nhưng quán sát như thế nào?

Xưa ở Aán độ, khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm(1) để quán theo lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các giai đoạn như sau:

a) Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thay chết, quán thây sình trướng to lên.

b) Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.

c) Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.

d) Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.

đ) Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.

e) Hám tưởng: Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.

ê) Tán tưởng: Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.

g) cốt tưởng: Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.

h) Thiêu tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.

Chín phép quán tưởng nầy, để đối trị lòng tham sắc dục.

Một khi phép quán nầy đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận như ở trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh, không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy hiểm của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân bất tịnh là để trừ lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê tởm thân mình, đến nỗi hũy bỏ mạng sống, hư sáu mươi vị Tỳ Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi qúan thân bất tịnh thuần thục ròi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến nỗi thuê người giết đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm cấm.

Ngày nay chúng ta không có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc mà Thiên ma sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi gia đựng toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng ! ". Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra kgoang tuyến, chúng ta có thể thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy củng đủ cho chúng ta quan niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài , là lớp gia bọc, chứ bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang tuyến X, thì cái đầu lâu của một người đép, cũng chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phêu đang nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.

Hỡi Phật tử, nếu ai đã phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành pháp "quán thân bất tịnh "; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân người không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để đến nỗi phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường cho mình và người chung quanh.

2. Quán tâm vô thường: Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. cái tướng của tự tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.

Người không học Phật thì không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp cả vũ trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là Ta, và cho rằng cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ.

Thần ngã là lối chấp của " Số luận sư ". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần ngã tự tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt ca ủ cái món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, không biết nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ trụ. Họ cho như thế là rốt ráo, mà khônh biết thần ngã ấy cũng chỉ là vọng thức mà thôi.

Còn linh hồn là lối chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt chết, chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ chết...

Nhưng sự thật không phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết. Nó thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác, khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần duyên...thật không có gí là thường hết. nó là tâm pháp vô thường, nó thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình à tiến hóa. Nếu tâm là thường thí không có sanh tử.Nếu tâm là thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là thường thì không ó nhân quả, tu cũng chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.

Vì muốn đối trị cái vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô thướng", để cho chúng sanh nhận biết rằng cái tâm không phải như một vật bất biến vô dụng, không phải là cái "Ta" chắc thật muôn đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng phiền não. Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v...đều do ngã chấp mà sanh ra cả.

Lại cũng vì chấp tâm là thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình, không thể sửa đổi được , như bảo:" Tánh tôi hay nóng giận, hay tham lam "; "Tánh tôi hay đa mê đờn ca xướng hát "; "Tánh tôi thích cờ bạc rượu chè".

Họ cho đó là một lối bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã chắc thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó, họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn chánh được.

Vậy, Phật tử chúng ta cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm mê lầm ra cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

3. Quán pháp vô ngã: Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. tàu dịch là quỹ trì, nghĩa là năm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, tròn méo...để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái nầy là gi, và khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp CẢ.

Còn Ngã có nghĩa là chủ lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật, thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã hội.

Ðã chấp có tự tướng của mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Ðối với tự tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ thử, quí trpngj, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh trong xã hội.

Song, xét ra cho kỹ thì các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với diệt...nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu? Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần. Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều không có tự tướng.

trong kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".

Ví như trong giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh nầy cảnh khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều là "vô ngã".

Chúng ta không biết lý "pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử.

nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi nữa.

Pháp vô ngã là lối tu giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?

4. Quán thọ thị khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thi khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ.

Nhận lãnh đây là nhận lãnh cái gì?

Nhận lãnh ở đây có nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên nhận lãnh cái thân nầy là cái thân riêng của ta, cái tâm nầy là cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu tiên để thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái trá, thích thú, vui vẻ. và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm. từ cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái thọ ít cần thiết, rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải vô ích, nhưng vì thói quen óp nhặt, tham lam, ta không thể bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi thọ nhận liên tiếp.

Và chính thọ nhận ấy là mần chính của đau khổ.

Trước tiên ta thọ nhận cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? nào sanh, nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán mà phải gặp gỡ v.v...thật là toàn những khổ nhưng đó là mới nói những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác, cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì cho là quý thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy, chước nọ để giữ gìn nó. Nhưng cuọc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn cái gì được nữa? Do đó, sanh buòn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ. Và người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa vị thì sợ mất địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh vọng lớn thì sợ mất danh vọng...

Nhưng có phải muốn thọ lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu? Thọ mà may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phát đầu tiên, nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời, thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường thường, ta ngửa tay mong nhận lãnh một cái nầy, mà một cái trái ngược khác lại rơi vào tay ta ! Do đó, sanh giận dữ, thất vọng, khổ đau.

Ðó là nghĩa của "Thọ thì khổ". Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham là một bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp.

Vậy Phật tử chúng ta, muốn diệt trừ tánh tham, phải quán "thọ thị khổ". ta phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ đau càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong một lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó xả. Càng xả chứng nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho rằng càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, vui thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh gì thì gánh cũng là gánh, và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ v.v...thì thân tâm ta không bị lay động. Ðối với cảnh ta thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng khổ đau.

Kết Luận

"Tứ niệm xứ" là gíao lý căn bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý nầy một cách tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ được một cách rốt ráo bón thánh kiến sai lầm lớn lao của con người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch; tưởng tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất diệt; tưởng mọi sự vật trên đời nầy chắc thật trường cữu; tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng nào thì sung sướng chừng ấy.

Nhưng sự thật lại rất trái ngược:

1) Thân thì bất tịnh, như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu chuộng.

2) tâm thì vô thường, luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì là trường tồn, bất diệt.

3) Pháp thì vô ngã, không có tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là như huyễn như hóa.

4) thọ thì khổ, chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến đổi; ta thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả trá, như khói, như mây. Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy.

vậy chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây. Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.

Phật tử càng nắm vững bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn trong Ðạo đế sau nầy, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực v.v...mới dũng mãnh và chóng có kết quả chừng ấy.

Trích Thư Viện Hoa Sen

Bát chánh đạo

Bát Chánh Ðạo

A. Mở Ðề

Trong 37 món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một.

Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đeù áp dụng pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.

B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh Ðạo

Bát Chánh đạo là tám con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu.

Người ta cũng có thể dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh.

Cũng có khi người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó sau đây:

a) Những kẻ phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh.

b) Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết Bàn.

Bát Chánh đạo gồm có:
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ
4. Chánh nghiệp
5. Chánh mạng
6. Chánh tinh tấn
7. Chánh niệm
8. Chánh định

II. Nội Dung Và Giá Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo

1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.

2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.

Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.

3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.

Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, Ngài dạy lại môn đệ phải cẩn thận lời nói.

Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi:

Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu?

Phật dạy:
Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.

Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế.

4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.

Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.

Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nữa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.

Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.

5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.

Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.

6. Chánh tinh tấn: Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.

Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).

Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa độ chúng sanh.

7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.

Chánh niệm có hai phần:

a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.

b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.

Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng.

8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.

Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:

Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) tức là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).

Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.

Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.

Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy trông thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diễn trừ ngã chấp, pháp chấp.

Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.

C. Kết Luận:

Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau đây:

1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.

2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày sau gặt hát quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo.

Trích Thư Viện Hoa Sen

Tứ diệu đế

Tứ diệu đế

Tứ diệu đế (zh. 四妙諦, sa. catvāry āryasatyāni, pi. cattāri ariya-saccāni), cũng gọi là Tứ thánh đế (zh. 四聖諦), là bốn chân lí cao cả, là gốc cơ bản của Phật giáo. Tứ diệu đế là nội dung của kinh nghiệm giác ngộ của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nội dung chính của bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển pháp luân.

Tứ diệu đế là:
- Khổ đế (zh. 苦諦, sa. duḥkhāryasatya), chân lí về sự Khổ): Chân lí thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Sinh, lão bệnh, tử, xa lìa điều mình ưa thích, không đạt sở nguyện, đều là khổ. Sâu xa hơn, bản chất của năm nhóm thân tâm, Ngũ uẩn (zh. 五蘊, sa. pañcaskandha, pi. pañcakhandha), là các điều kiện tạo nên cái ta, đều là khổ.
- Tập khổ đế (zh. 集苦 諦, sa. samudayāryasatya), chân lí về sự phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, Ái (愛, sa. tṛṣṇā, pi. taṇhā), tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt. Các loại ham muốn này là gốc của Luân hồi (zh. 輪迴; sa., pi. saṃsāra).
- Diệt khổ đế (zh. 滅苦諦, sa. duḥkhanirodhāryasatya), chân lí về diệt khổ: Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt.
- Đạo đế (zh. 道諦, sa. duḥkhanirodhagāminī pratipad, mārgāryasatya), chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đạt sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Không thấu hiểu Tứ diệu đế được gọi là Vô minh (zh. 無明, sa. avidyā, pi. avijjā).

Theo truyền thuyết, thông qua sự khám phá Tứ diệu đế, Phật đạt Giác ngộ (覺悟, pi. bodhi). Phật bắt đầu giáo hóa chúng sinh bằng giáo pháp này, tại Lộc uyển. Phật thuyết như sau về Tứ diệu đế trong kinh Chuyển pháp luân (bản dịch của Thích Minh Châu):
+ Này các tỉ-khâu, đây chính là Khổ thánh đế: sinh là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ; thân ái biệt li là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm uẩn chấp thủ là khổ.
+ Này các tỉ-khâu, đây chính là Tập khổ thánh đế. Chính là ái đưa đến hữu, tương ứng với hỉ và tham, tìm cầu hoan lạc chỗ này chỗ kia, chính là dục ái, sinh ái, vô sinh ái.
+ Này các tỉ-khâu, đây chính là Diệt khổ thánh đế. Chính là sự diệt tận, vô dục, từ bỏ, xả li, giải thoát, tự tại đối với các ái.
+ Này các tỉ-khâu, đây chính là Đạo diệt khổ thánh đế, đưa đến diệt Khổ, chính là con đường thánh tám ngành: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.”

Tứ diệu đế đã được Ðức Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lý, hợp tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi nói đến Tứ Diệu Ðế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác đáng, còn tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của toàn bộ pháp môn ấy.
Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cõi đời. Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật xa lạ ở đâu đâu. Ðã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai không đau ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Ðã có thân, tất phải khổ. Ðó là một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận xét.

Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy. Ngài đã từ hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lý luận của Ngài đã đặt căn bản lên thực tại, lên những điều có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn vong, mơ hồ.

Ðến giai đoạn thứ ba, đức Phật nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt: giai đoạn trên khổ sở như thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà Ngài trình bày cho chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong, vì nếu đã có cái khổ là cái vui. và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào, thì mới hăqng hái tìm cách thoát khổ và khao khát hướng đến cai vui mà đức Phật đã giới thiệu.

Ðến giai đoạn thứ tư là giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau. Ðó là một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước khi bảo người ta đi, thì phải nêu mục đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, khi ấy người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực hiện cho được mục đích ấy.

Như thế, chúng ta có thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Ðế như sau:

Chúng ta đang đứng trước một bức họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm chìm, với vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, khóc lóc, chới với...(Khổ đế).

Trong cái phần nầy của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân gây ra những thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân, si.. những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập đế).

Nhìn đến phần trên của bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh; ở đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm, không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than...đây là một miền cao nguyên, cang flên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ, yên vui. Người ở đây trông có vẻ bình tĩnh, thảnh thơi, vui vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng bậc cao thì lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi, giải thoát...(Diệt đế).

trong phần nầy, nếu chúng ta chú ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bản đề tên đường đi, rất hay như: tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, tứ như ý túc,. Bát chánh đạo v.v...Trên những con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống. và càng lên cao thì con đường lại càng rộng rãi mát mẻ, tốt đẹp và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lý...(Ðạo đế).

Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế gian".

Ðây, bức họa Tứ Diệu Ðế rõ ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh giới: Thế gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai đã nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành cảnh ở phần dưới và mong ước được sống trong cảnh giới trình bày ở phần trên bức họa.

Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa mà chung cho cả Ðại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Ðế được. Pháp môn nầy, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn nầy tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại Thừa, để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, trìnhoộ nào cũng có thể tu theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải cần có một trình độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình mới có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất về Tứ Diệu Ðế.

Trích Wikipedia

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn (sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰), là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái "ta".

Ngũ uẩn là:
- Sắc (pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất(xương thịt), nước(máu), gió(hơi thở), lửa(hơi ấm). Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
- Thụ (pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
- Tưởng (sa. saṃjñā, pi. saññā), là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
- Hành (sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác...
- Thức (sa. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Ngũ uẩn cũng được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Phật hay A-la-hán mới không bị dính mắc nơi chúng. Đặc tính chung của chúng là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh đến tính Không của ngũ uẩn. Sắc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Danh sắc cả ngoài và trong. Diệt danh sắc. Tiếp diệt cảm thọ, biết cái chân thật, biết nó vô thường mà chẳng nên theo.
+ Diệt các tưởng lăng xăng
+ Diệt các tưởng chấp.
+ Quán tưởng, diệt hành.
+ Diệt tâm phân biệt, diệt thức.

Vô ngã, đạt được vô ngã tức là ngã phật, đạt được vô ngã tức phật ngã chẳng gọi là ngã. Pháp phật không thể nói, không nghể nghĩ bàn.

Tính chất khổ và vô thường của năm uẩn là một trong những quan điểm quan trọng nhất của Phật giáo. Khổ xuất phát từ sự bấp bênh, không chắc thật của các uẩn đó; và con người được tạo thành từ năm uẩn đó không gì khác hơn là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự đứng đằng sau con người đó (Vô ngã). Tri kiến về tính vô ngã của ngũ uẩn là một tri kiến rất quan trọng, nó có thể đưa đến giải thoát.
Đại sư người Đức Nyānatiloka trình bày như sau về tầm quan trọng đó:
"Đời sống của mỗi chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi hiện tượng thân tâm, một chuỗi hiện tượng đã hoạt động vô lượng kiếp trước khi ta sinh ra và sẽ còn tiếp tục vô tận sau khi ta chết đi. Ngũ uẩn này, dù riêng lẽ từng uẩn hay hợp chung lại, chúng không hề tạo thành một cái gì gọi là cái ta. Ngoài chúng ra, không còn cái gì được gọi là một thể của cái ta độc lập với chúng, để ta tạm gọi nó là cái ta. Lòng tin có một cái ta, có một nhân cách độc lập chỉ là một ảo tưởng."

Joseph Goldstein cũng viết:
"Cái mà chúng ta gọi là cái ta chỉ là ngũ uẩn đang hiện hành vô chủ."

Trích Wikipedia

Thursday, September 17, 2009

Cảm xúc những ngày onsite

Cảm xúc những ngày onsite

Em ơi em ơi đêm dài lắm
Một mình ray rứt, giấc mộng tan
Đêm nao hai đứa dưới trăng vàng
Điều đàn ca khúc điệp tình tang

Hôm nay xa nhau rồi mới biết
Chỉ mong phương ấy người nhớ tôi
Tuy xa nhưng trăng vẫn còn đó
Biết người nơi ấy có ngăm trăng?

Sài gòn em ơi còn xa lắm
Bao ngày mơ mãi lúc bên người
Dịu dàng ánh trăng soi nỗi nhớ
Mong người thương ấy cũng nhơ tôi.
Nguyễn Lịnh Quang
FSOFT, 15/01/2009 10:54

Thursday, September 10, 2009

Đức phật trong cái nhìn của các nhà khoa học

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].
1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật:

Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Ðức].

Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức Phật kể cả trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan].

Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng Ta"].

Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng ích kỷ có ba dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình.
Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [- H.G. Wells].

Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman].

2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật

Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"].

Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật không đòi hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lý của đức Phật"].

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis].

Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [- Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Ðức].

Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ và từ bi". [Anatole France].

Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí. [- Một Văn Hào].

Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert Oppenheimer - Lý thuyết Lượng tử].

Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật. [- Tổng thống Nehru].

3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại:

Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông diệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm sanh khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru].

Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương].

Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [- Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay của Ngài. [- Một học giả Hồi Giáo].

Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan,"Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"].

4. Giáo pháp của Đức Phật:
Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và đã tìm thấy câu trả lời. [- Tiến Sĩ Graham Howe].

Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [- Tiến sĩ G. P. Malasekara].

Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo tôn giáo này. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"].

Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi. [- Gertrude Garatt].

Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy bởi sự khoáng đạt của tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ Edward Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương].

Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không còn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật giáo"].

Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids].

Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn còn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well].

Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"].

Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"].

"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].


Wednesday, September 9, 2009

RanNelle Wallace

RanNelle Wallace
Vào ngày 9 tháng 10 năm 1985, RanNelle Wallace cùng chồng cố gắng lái máy bay một động cơ vượt qua một cơn bão tuyết đến tiểu bang Utah, Mỹ Quốc. Sau một hồi chống chọi với những cơn gió mạnh và tuyết rơi mù trời họ đã bị mất phương hướng và đâm vào một ngọn núi. Chiếc máy bay nhỏ bé chở vợ chồng họ đã bị bể thành nhiều mảnh rồi bốc cháy...

RaNelle bị phỏng nặng và đau đớn quá độ, sáu giờ đồng hồ sau cô đã chết trong chiếc xe cứu thương. Những chuyện gì đã xảy ra cho cô trong khi chết đã chiếm được lòng cả ngàn người khi họ nghe về cuộc du hành kỳ lạ của cô ở thế giới bên kia. Kinh nghiệm về sự chết của cô rất lạ lùng và khá kỳ diệu. Trong lúc ở trên thiên đàng, cô đã gặp được đứa con trai của cô, đứa con mà chưa được sinh ra ở thế gian này. Đây là khía cạnh đã làm cho kinh nghiệm gần kề sự chết của cô rất dị thường.
Những đoạn văn dưới đây được trích từ quyển sách của cô có tên là “The Burning Within” tạm dịch là Sự Thiêu Đốt Bên Trong do Tâm Linh.net dịch thuật.

Cuốn Phim Về Cuộc Đời (hồi quang phản chiếu)
“Ngay lúc đó, tôi bị cuốn hút vào trong một cái ống nhỏ hẹp. Tôi bắt đầu bay qua cái ống, chân đi trước. Cái ống vô cùng nhỏ hẹp và chặt khít, tôi có cảm tưởng rằng thân thể mình đang bị hút từ trong ra ngoài với tốc độ di chuyển rất nhanh không thể tưởng, trên trần gian này không gì có thể sánh bằng cái nhanh đó được, nhanh khủng khiếp.
Tôi cảm thấy như mình đang phóng vút qua những giải thiên hà. Tôi thấy màu sắc và ánh sáng bên cạnh tôi cứ vùn vụt lướt qua làm tôi sợ hãi vô cùng.”
“Tôi nghe thấy nhiều tiếng nói, hình như có nhiều người đang di chuyển chung quanh tôi. Tôi cảm thấy rằng có một người đang ở cạnh tôi, người này cũng như tôi đơn độc một mình.
(Trên thực tế thì tôi không thấy ai cả mà chỉ có thể cảm nhận mà thôi.)
Bỗng nhiên những tiếng xì xào chợt ngưng hẳn, một màn ảnh không biết từ đâu xuất hiện, rồi những loạt hình ảnh, ngôn từ, sáng kiến, cùng sự hiểu biết chiếu sáng chớp nhoáng trước mắt tôi; đó là quang cảnh về cuộc đời tôi, và tôi đã thấu hiểu và học hỏi từ đó. Không những tôi chỉ hiểu được những sự việc đó mà hồi tưởng những gì đã qua và tôi lại là người đó, một người đã làm những việc để mẹ tôi đau lòng, hoặc nói những lời chói tai với cha tôi hoặc anh chị tôi, và đây cũng là lần đầu tiên tôi biết được vì sao tôi lại làm và nói như vậy. Tôi hiểu mỗi lý lẽ cho mọi sự việc mà tôi đã làm, và tôi còn hiểu được cả sự tác động của nó đối với những người khác nữa...
Tôi thấy từ cảnh này sang cảnh khác cứ tiếp diễn như vậy cho đến suốt cuộc đời tôi.”
“Những sự việc trong đời mà tôi sợ khi phải xem lại hình như không có xuất hiện. Tôi hiểu rằng tôi phải gánh lấy trách nhiệm cho những gì mình đã gây ra. Tôi thấy rất ân hận và thành tâm mong mỏi Thượng Đế lấy đi cái gánh nặng tội lỗi của những hành vi xấu xa này, và tôi ngạc nhiên khi thấy với tình thương vĩ đại của Ngài những tội lỗi của tôi đã được tha thứ và xóa bỏ thật dễ dàng.
Nhưng rồi tôi thấy những cảnh tượng khác mà tôi không thể lường được. Trong cuộc đời này, tôi đã làm cho nhiều người thất vọng. Gia đình và bạn bè mong mỏi và cần tôi giúp đỡ nhưng tôi lại luôn chối từ viện cớ vì bận việc. Cái tính phóng túng của tôi đã làm đau lòng và nhức óc cho nhiều người; nỗi đớn đau này tôi không hề hay biết.”
“Một bối cảnh khác lại diễn ra. Tôi thấy một cô bạn có cuộc sống rất là gian truân. Trước khi xuống trần, cô ta đã sống ở một nơi xinh đẹp trên cõi tâm linh; cô ta đã bối rối và do dự về việc xuống địa cầu, nhưng khi được hứa là sẽ cho cô sinh vào một gia đình tốt, có anh chị em và bạn bè tốt, nên cô ta bằng lòng xuống để học hỏi và thăng hoa.
Tôi thấy rằng mình là một trong những người bạn đời để dẫn dắt và giúp đỡ cô ta, nhưng không ngờ chính cái tính dại dột điên rồ với thái độ bất cần ai của tôi đã làm cho cô lầm đường lạc lối đưa đẩy cô ta vào những lỗi lầm và thương đau.”
Tôi đã phá hoại chính cuộc đời mình, không để ý đến những hậu quả sau này, cũng chính vì những việc làm của tôi đã đem khổ đau đến cho cô ấy. Nếu tôi làm theo sự giao ước của tôi với người khác thì cô ấy đã có một cuộc sống phong phú và yên bình; cho đến giờ phút đó, tôi mới ý thức rằng trốn tránh trách nhiệm là một cái tội...
Chuyện gì đang xảy ra vậy? Tại sao tôi lại thấy những cảnh tượng này? Tâm trí tôi quay cuồng với nhiều câu hỏi.”
“Tiếp theo, tôi lại thấy một người đàn bà mà người trưởng ban nhà thờ nơi tôi cư ngụ đã nhờ tôi nên thường lui tới thăm viếng. Nhiệm vụ tôi là đến nhà hỏi han và xem bà ta có cần giúp gì không. Bà ta nổi tiếng rất là cay cú và rất bi quan, vì nghĩ rằng tôi không thể nào chịu đựng áp lực mà bà ta sẽ đổ lên người tôi nên tôi không bao giờ ghé thăm bà ấy, dù chỉ một lần thôi. Bây giờ thì tôi mới biết đó là sự an bài của Lực Lượng Tối Cao, vì lúc đó tôi là người mà bà ấy cần đến; bà ấy không biết, tôi cũng không biết, nhưng tôi đã phụ lòng bà ấy. Bây giờ tôi sống với nỗi buồn của bà ấy với sự thất vọng tràn trề mà chính tôi là người đã gây ra. Tôi đã thất bại trong sứ mệnh đặc biệt này, một nhiệm vụ mà có thể làm tôi thêm kiên cố và vững mạnh hơn. Tôi đã trốn tránh cơ hội để thăng hoa cho tôi và cho bà ấy chỉ vì tôi không đủ can đảm để chống lại sự sợ sệt nhỏ nhen và lười biếng của mình, nhưng dù có lý do gì cũng không còn quan trọng. Tôi thấy rằng, mãi đến giờ, bà ấy vẫn còn sống trong phiền muộn và cay đắng mà bây giờ tôi đang trải qua và nghiệm được.”
“Tôi nghiệm lại những việc tốt mà tôi đã làm, nhưng nó quá là ít ỏi và không có gì đáng kể như tôi đã nghĩ. Hầu hết những việc lớn lao tôi nghĩ mình đã làm cũng vì chính bản thân mình mà thôi. Tôi phục vụ cho mọi người nếu họ giúp đỡ tôi.
Tất cả những công việc thiện nguyện mà tôi làm đều là sự báo đáp; dù chỉ là sự báo đáp cũng làm bản ngã của tôi tăng lên..."
"Những hành động tốt như một lời nói tốt, một nụ cười tươi, làm vài việc nhỏ nhặt tôi đều quên lãng nhưng tôi thấy những việc làm đó đã làm người ta vui hơn; và để báo đáp họ cũng đối xử tốt với người khác.
Và khi tôi thật sự cười và thật lòng giúp đỡ thì tôi thấy mình phát ra một làn sóng tốt của hy vọng và thương yêu. Tôi thấy thất vọng tràn trề vì những sự việc như vậy thì tôi làm rất là ít.
(Tôi đã không giúp được nhiều người như tôi đã nghĩ.)
“Khi cuốn phim đời tôi kết thúc thì tôi rơi vào một trạng thái đau khổ tột cùng. Tôi thấy mọi sự việc mà tôi đã làm rất rõ ràng và từng chi tiết... những việc xấu xa thường ám ảnh tôi cho đến cuối còn những việc làm tốt thì vang vọng mãi với những phần thưởng và sự vui sướng tột đỉnh mà tôi không bao giờ ngờ được. Cuối cùng tôi mong muốn, tôi thấy mình mong muốn được làm lại từ đầu.
Không có ai ở đó để phê bình và chỉ trích tôi, không một người nào hết, nhưng trong lương tâm của tôi đã thiêu đốt tôi. Tôi đã bị nấu chảy trong sự thống khổ của chính lương tâm mình. Ngọn lửa ăn năn hối hận bắt đầu bừng cháy thiêu đốt tâm can tôi...”
“Một điểm sáng xuất hiện ở đằng xa. Nó chỉ nhỏ như đầu một cây kim, một đốm thật nhỏ nhưng ánh sáng chói lọi của nó đã phân nó ra từ những ánh sáng khác đang bao quanh tôi. Do bản năng tự nhiên tôi hướng về nó.
Phát ra từ ánh sáng là tình thương, hy vọng, và bình an mà linh hồn của tôi đang khao khát. Tôi mong muốn và cần ánh sáng rực rỡ chói lọi này.
Cái ống nhỏ hẹp u tối bây giờ trở thành một con đường hầm, càng đến gần thì con đường hầm càng mở rộng ra, ánh sáng tuôn tràn trước mặt tôi làm mọi vật đều bị ánh sáng rực rỡ bao phủ. Tôi bị ánh sáng này hút vào với vận tốc nhanh khủng khiếp.
Ồ, Thánh Thần ơi, ánh sáng này còn sáng hơn mặt trời nữa nó sẽ làm tôi đui mất! Và có thể nó sẽ giết chết tôi luôn!”
“Tôi lại nhớ đến chiếc máy bay bị cháy làm tôi phỏng nặng nên tôi sợ ánh sáng chói lọi này sẽ lại đốt cháy tôi thêm một lần nữa nhưng tôi không thể dừng lại; tôi bị hút bởi năng lực nào đó mà tôi không thể chống cự được. Tôi nhắm mắt trước sự hủy diệt sắp xảy ra cho tôi, mắt đã nhắm nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy...”
“Và tôi đã bay vào trong ánh sáng đó.”
“Như là một cái hỏa tiển bùng nổ, ánh sáng xuyên qua người tôi. Mỗi tế bào trong cơ thể tôi đều bị ánh sáng rực rỡ chói lọi đui mắt này đâm thủng, lúc đó tôi thấy mình giống như một hình bóng.
Da của tôi không bị cháy và mắt tôi vẫn thấy rất rõ ràng.
Tôi bay lơ lửng và tắm gội trong ánh sáng này, tình thương bao bọc tràn đầy ở chung quanh tôi rất dịu ngọt và tốt lành làm tôi biến đổi trở nên tinh khiết, thanh tao, và đơn thuần. Tôi gội rửa trong sự diệu ngọt, những đau đớn phiền muộn của quá khứ đã bỏ lại sau lưng và trôi vào quên lãng, thay vào đó là sự tĩnh lặng bình an...
Bỗng dưng tôi thấy một bóng hình ở đằng xa đang tiến về phía tôi.”
“Một người đàn bà mặc áo trắng đang đến gần. Tóc bà màu bạch kim, khuôn mặt bà tỏa ánh sáng rạng ngời. Lúc đó tôi không sợ vì tình thương mà tôi cảm nhận được không chứa đựng sự sợ hãi. Bà ta đến trước mặt tôi trong tích tắc. Bà ta mỉm cười. Tôi yêu nụ cười của bà vì trong nụ cười đó đã chứa một tình thương vĩ đại.”
“RaNelle.”
“Bà ta gọi tên tôi nhưng miệng của bà ta không hề chuyển động; nụ cười của bà vẫn nở trên môi... Tôi nghĩ rằng: ‘Chao ôi! Cái mánh này thật tuyệt! Bà ta không mở miệng mà vẫn có thể nói.”
“RaNell,” bà ta lại gọi. Lúc đó tôi mới để ý thấy rằng cái tiếng nói ở trong đầu tôi chứ không phải nó lọt vào từ lỗ tai. Tại sao lại như vậy? Tôi đang suy nghĩ thì bà ta lại lên tiếng.
“RANELLE. Bà ta nhấn mạnh hơn. NGOẠI ĐÂY!”
“Khi bà ta vừa nói xong thì tôi nhận ra ngay. Bà ta chính là mẹ của mẹ tôi, nhưng bà ta nhìn khác lắm chẳng giống ngoại tôi chút nào. Người đàn bà đang đứng trước mặt tôi mập mạp, dễ thương, rực rỡ và chỉ cỡ 25 tuổi thôi; tóc bà ta màu bạch kim óng ánh, nói chung là tất cả mọi thứ trên người bà ta đều sáng ngời rất là đẹp.
À, tôi đã hiểu ra vì sao tôi không nhận ra bà rồi; bà ngoại mà tôi biết thì ốm yếu vì nhuốm bệnh nhiều năm...
Rồi hiện thực làm tôi sực tỉnh.”
“Ngoại đã chết rồi mà. Bà đã mất khoảng hai ba năm trước.
Tôi suy nghĩ, nếu ngoại đã chết thì tôi làm gì ở đây?
Ồ! Tôi đã chết rồi sao.
Ý niệm của tôi phát ra như lời nói, mặc dù miệng tôi không hề cử động.”
“Bây giờ thì mọi thứ đều ăn khớp với nhau, những màu sắc ánh sáng, sự hồi tưởng của cuộc đời, và tình thương của ánh sáng rực rỡ này, tất cả đều xảy ra theo tự nhiên khi đời sống của tôi tiếp tục ở thế giới kế tiếp. Chắc chắn đây không phải là giấc mơ hay bị thuốc mê rồi sinh ra ảo tưởng, tôi nhận thức được bây giờ mình còn sống động và mẫn cảm hơn khi ở trong nhục thể. Tôi liền chấp nhận điều này rồi thắc mắc không biết mọi người đâu rồi?
“Ngoại cười khúc khích. Mặc dù đôi môi của ngoại không hé mở nhưng tâm của ngoại đã cười.”
“Không phải mọi người đều phải đến đón con khi con chết sao?” Tôi hỏi. “Không phải mọi người sẽ hát bài Thánh Ca Hallelujah và đến ôm con rồi nói ‘Chào Mừng’ con sao?”
“Ngoại lại cười khúch khích. Tôi nghĩ đó là những tiếng cười trong sáng nhất mà tôi chưa từng nghe thấy.”
“Được rồi.” Ngoại nói. “Mọi người đều bận rộn. Theo ta, con còn nhiều thứ để thấy lắm”, rồi ngoại đưa tay ra nắm lấy tay tôi, nhưng tôi kéo tay lại và nói, “Đợi chút, còn Jim thì sao?”
“Jim là (anh) bạn của tôi đã tử vong trong một tai nạn xe hơi cách đây vài tháng.”
“Nếu ngoại ở đây thì có lẽ ngoại sẽ nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra cho anh ấy.”
“Tôi lại lên tiếng hỏi: Còn Jim thì sao?”
“Vừa lúc đó tôi thấy Jim ở đằng xa đi tới. Tôi muốn chạy ngay đến ôm chầm lấy anh ấy nhưng ngoại tôi giơ cánh tay ra chặn lại rồi nói: “Không được. Con không thể đến gần cậu ấy.”
“Tôi giật mình. Trong lời nói của ngoại có một mãnh lực gì đó làm tôi phải khựng lại.”
“Tại sao không được.” Tôi hỏi.
“Bởi vì cách cậu ấy sống khi còn ở trần gian,” ngoại trả lời.
“Bây giờ anh ấy đến gần hơn và ngừng lại cách 5 thước. Anh ta mặc quần jean với áo sơ mi màu xanh nút áo chỉ cài đến giữa ngực giống như khi anh ấy còn sống.”
“Trời ơi, hết sức nói, người ta để anh ăn mặc như vậy trên thiên đàng sao?”
“Anh ấy cười.” Tôi cảm thấy sự vui sướng của anh ấy ở trong tâm, tuy anh ấy không có ánh sáng và năng lượng phát ra giống như ngoại tôi nhưng anh ấy có vẽ mãn túc lắm..."
“Anh ấy đã gửi tôi một thông điệp để đem về cho mẹ của anh ấy. Anh ấy bảo rằng tôi nói lại với bà đừng nên đau buồn vì cái chết của anh ấy nữa vì bây giờ anh rất vui vẻ và đang trên con đường tiến hóa. Anh ấy giải thích, khi còn sống anh ấy đã quyết định vài vấn đề trong đời sống không được chính chắn vì vậy nó đã cản trở cho sự thăng hoa của anh ấy ở trần gian. Anh ấy đã chọn và quyết định vấn đề dù biết rằng đó là sự sai lầm, giờ đây anh ấy chấp nhận mọi hậu quả.
Anh ấy còn cho tôi biết, khi bị hất tung ra từ xe hơi đầu anh ta đã đập vào một cục đá và chết ngay tức khắc. Khi sang bên kia thế giới, anh ấy có thể lựa chọn ở lại cõi tâm linh hay là trở lại trần gian, vì thấy sự tiến hóa của mình ở địa cầu đã kết thúc nếu trở lại anh ấy sẽ mất thêm ánh sáng mà anh đã sở hữu nên anh chọn ở lại nơi này.
Anh ấy mong tôi có thể giải thích tất cả những gì mà tôi nghe được cho mẹ của anh ấy nghe và tôi đã hứa với anh ấy mặc dù lúc đó tôi không có ý định trở lại trần gian. Sau đó anh nói có rất nhiều việc đang đợi chờ anh ấy làm. Vừa nói xong anh ấy quay lưng bỏ đi.”
“Tôi quay sang ngoại rồi hỏi vì sao bà lại ngăn cản tôi không cho tôi đến ôm mừng anh ấy. Ngoại mới cho biết đó là một phần sự ‘đọa đày’ của anh ấy.
“Ngoại tôi giải thích: Những lực lượng chúng ta nhận được là tự mình ban cho mình. Chúng ta trưởng thành qua lòng khao khát của chúng ta muốn học hỏi, yêu thương, và chấp nhận mọi việc bằng đức tin mà chúng ta không thể nào chứng minh được. Khả năng của chúng ta tiếp nhận được chân lý và sống với chân lý sẽ ảnh hưởng đến sự thăng hoa trong tâm linh của chúng ta, và điều này sẽ xét đoán mức độ ánh sáng mà chúng ta sở hữu. Không có ai có thể áp đặt ánh sáng và chân lý đối với chúng ta, và cũng không có ai lấy đi được ngoại trừ chúng ta cho phép họ. Chúng ta tự quản trị và tự xét đoán mình. Chúng ta có toàn quyền hạn.
Jim đã quyết định giới hạn sự tiến hóa của mình ở Địa Cầu bằng cách từ chối những điều cậu ấy biết rằng đó là chân lý. Cậu ấy tự làm khổ chính mình và người khác bằng cách sử dụng và buôn bán thuốc phiện. Cậu ấy có nhiều lý do để quay sang xử dụng thuốc nhưng trên thực tế cậu hiểu rằng đó là điều sai lầm. Cậu ấy đã chọn bóng tối thay vì ánh sáng và bây giờ ở một mức độ nào đó cậu ấy trở thành một linh hồn đen tối. Giống như cậu ấy đến một tầng lớp đen tối - thiếu ánh sáng - ở nơi đây trong thế giới tâm linh. Đúng vậy cậu ấy vẫn có quyền hạn để tiến hóa, cậu ấy vẫn có thể tìm được tất cả sự vui sướng và tất cả những gì mà cậu có khả năng thu nhận, nhưng cậu ấy biết rằng mình không thể sở hữu những lực lượng, và thăng hoa để đạt được sự sung sướng bằng những người nhiều ánh sáng hơn. Đây là sự đày đọa, nhưng vì chính cậu đã chọn con đường này nên cậu ấy thấy vui vẻ.”
“Ngoại truyền đạt những điều này với vận tốc ánh sáng nhanh hơn là máy điện tử có thể phát ra, nó đến ngay tức khắc và hiểu biết toàn diện. Tôi nhận thấy rằng ngoại và tôi có thể nghĩ trên nhiều trình độ cùng lúc rồi truyền đạt chúng cùng một lúc.
Quý vị không thể biết vật gì nếu không biết mọi vật ở chung quanh nó, cái gì tạo ra nó và cái gì đã chống đỡ nó. Sự hiểu biết lắp mộng đuôi én (nghĩa bóng ‘ăn khớp với nhau’) trong thế giới tâm linh, mỗi phần đều vừa với những phần khác. Mỗi sự việc liên quan với nhau đều được thấy ngay lập tức trong toàn diện; không giống như ở trần gian, chúng ta chẳng khi nào đạt được như vậy. Kiến thức và khả năng của chúng ta dùng để thông tin chỉ giống như đứa trẻ chưa biết cách phát âm.
Chúng ta gắng sức để truyền tin nhưng lại không sở hữu công cụ, có phải cũng giống như đứa trẻ nhỏ vậy.”
Ngoại tôi đưa tay ra và nói: “Đi nhanh.”
Tôi định nắm tay ngoại nhưng đã dừng lại.
“Chà,” tôi nói. “Hãy nhìn tay của con nè.”
“Tay của tôi trong suốt như keo, có ánh sáng như máu cũng trong suốt. Ánh sáng không chảy theo những đường gân máu như trong tĩnh mạch mà lại bắn xuyên qua tay tôi giống những tia nắng, cả bàn tay tôi lấp lánh ánh sáng. Tôi nhìn xuống thấy chân của tôi cũng lấp lánh ánh sáng. Tôi chú ý lần nữa thấy đôi chân và đôi tay không có bị cháy, tất cả vẫn còn tốt và lành lặn có đều nó phát ra ánh sáng lấp lánh. Tôi nhìn ngoại thấy rằng ánh sáng của ngoại sáng hơn ánh sáng của tôi. Mỗi tế bào của ngoại rất chói lọi rực rỡ, kể cả chiếc áo đầm ngoại đang mặc đều một màu trắng sáng chói.”
“Vài phút sau, chúng tôi nắm tay nhau đi, và một quang cảnh tuyệt đẹp tôi chưa từng thấy đã mở ra trước mắt.”

Sự Gặp Gỡ Đứa Con Trai Tương Lai
Trước mắt tôi là một phong cảnh tuyệt đẹp, đẹp không thể diễn tả được. Tôi đã đến nhiều khu vườn nổi tiếng tại tiểu bang Califoria nhưng không có cái nào đẹp đẽ giống như khu vườn trước mặt tôi; đó là một tấm thảm cỏ trãi dài vô tận len lỏi trong những ngọn đồi chói sáng rực rỡ. Màu xanh của cây cỏ nơi đây rất đậm mầu và lung linh ánh sáng. Từng chiếc lá rất sinh động mạnh mẻ và tất cả đều phát ra ánh sáng; mỗi chiếc lá khác nhau và hoàn chỉnh như đón chào tôi đến nơi thần tiên này.”
“Cả khu vườn cất vang tiếng hát. Những bông hoa, ngọn cỏ, cây cối tràn ngập chỗ này với những âm thanh nhịp nhàng giai điệu tuyệt vời. Tôi cảm nhận được tiếng nhạc này bằng cách nào đó vượt trên cả trình độ thính giác của tôi.
Khi ngoại và tôi dừng lại trong chốc lát để thưởng thức phong cảnh tuyệt diệu này tôi đã thầm thì khen ngợi: “Mọi vật nơi đây đều biết ca hát,” thật khó mà nói lên hết những cảm tưởng của tôi lúc đó...
(Sự thực thì không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả đầy đủ cái vẻ đẹp của thế giới bên trên.)
“Tôi để ý đến những đóa hoa hơi khác lạ gần nơi chúng tôi đang đứng. Ngoại tôi vẫy tay ra lệnh cho chúng đến; dù đó là một mệnh lệnh nhưng những đóa hoa đã vui mừng tuân theo. Chúng nó bay đến dừng lại lơ lửng ở trên không trong vòng tròn của đôi tay ngoại rồi một bó hoa đã hoàn thành và sống động. Mỗi đóa hoa đều có khả năng truyền đạt, tác động, và đồng thời soi sáng những bông hoa khác cạnh bên.
Ngoại ơi, chúng nó không có cuống hoa. Tôi nói.
Tại sao chúng nó phải có cuống hoa?” Ngoại đáp. Các loài hoa ở trên trần gian đều cần có cuống hoa để nhận nguồn dinh dưỡng và để trưởng thành đến trạng thái viên mãn nhất của tiềm năng. Muôn loài do Thượng Đế sáng tạo đều mang tính chất tâm linh và được phác họa đề hướng về nguồn tâm linh cao cả nhất của mỗi loài. Một đóa hoa đạt đến trạng thái trọn vẹn nhất thì nở rộ; còn nơi đây muôn hoa đều hiện hữu ở trạng thái tròn đầy nhất vì vậy không cần đến cuống hoa."
“Nhưng... chúng nó biết lơ lững trên không.”
“Chúng nó phải rớt xuống sao? Mọi vật nơi đây đều hoàn mỹ mà.” Nói xong ngoại cầm một đóa hoa lên đưa cho tôi rồi nói: “Đẹp không?”
“Cả đóa hoa đều tràn đầy màu sắc ánh sáng khác nhau, sự đẹp đẽ của nó thật không thể tưởng được. Rồi đóa hoa trở nên một phần của tôi, linh hồn của nó hòa nhập với linh hồn tôi, và nó nghiệm được mọi thứ mà tôi đang làm hay đã làm từ trước. Nó nhận thức sâu sắc về tôi, cùng lúc nó đã thay đổi tôi với tính chất tâm linh thanh cao của nó cùng sự hiện hữu và đời sống của chính nó. Nó ảnh hưởng đến những cảm giác, những ý nghĩ, và cá tánh của tôi. Tôi là nó và nó cũng là tôi. Nỗi vui mừng đó đến từ sự hợp nhất này đã thấm nhuần sự ngon ngọt thơm tho và tràn đầy hơn bất cứ những gì mà tôi đã nghiệm được từ trước đến giờ đã làm cho tôi muốn bật khóc.
(Trong kinh điển nói rằng có một ngày tất cả mọi thứ đều hợp nhất, câu nói này đối với tôi bây giờ có tác dụng rất lớn lao.)
“Ngoại tôi ra lệnh cho những đóa hoa trở về thì chúng nó lập tức bay nhẹ nhàng về chỗ cũ. Đóa hoa trên tay tôi cũng trở về nơi của nó nhưng hương thơm của nó vẫn còn ở bên tôi.”
“Tất cả những thứ này đều đến từ Thượng Đế, và năng lượng để duy trì mọi thứ cũng đến từ Ngài, và đó là năng lượng tình thương của Ngài. Cũng như đời sống cây cỏ ở trần gian phải cần đất, nước, và ánh sáng để nuôi dưỡng thì đời sống tâm linh phải cần đến tình thương. Tất cả sự sáng tạo đều do nguồn tình thương của Thượng Đế, và mọi thứ Ngài tạo ra đều có chứa đựng tình thương.
Ánh sáng, chân lý, và đời sống tất cả đều được sáng tạo trong tình thương và được duy trì bởi tình thương. Thượng Đế cho chúng tình thương, chúng ta cho chúng tình thương, con cho chúng tình thương vì vậy sự sáng tạo được phát sinh. “RaNelle, Ta thương con.” Bà nói.
“Khi ngoại vừa nói xong, tôi nhận được tình thương của bà truyền vào trong bản thể của tôi và toàn thân tôi đều tràn đầy sự ấm cúng và sung sướng không thể nào diễn tả được. Đây là sự sống, đây là sự hiện hữu chân chính, không giống như đời sống ở trần gian.
Tôi cảm thấy cây cỏ thương yêu tôi, mây trời, hương hoa, và mọi thứ đều thương yêu tôi. Và khi tôi nhận được những lời nói của ngoại tôi cùng tình thương này thì tôi biết rằng kể từ bây giờ tôi chịu trách nhiệm để tăng trưởng và nâng cao tình thương ở chung quanh tôi trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bà đã dạy tôi về tình thương yêu, ý nghĩa, sự rộng lớn và năng lượng của nó, không phải chỉ vì tôi thấy thích thú khi nhận nó mà còn phải biết cách bày tỏ tình thương này đến những người khác.
(Khi chúng ta tràn đầy tình thương thì mới thành suối nguồn của tình thương được.)
“Ngoại tôi nắm tay tôi và chúng tôi bay qua khu vườn. Bà giải thích vài mục đích cơ bản của cuộc sống chúng ta trên Trần Gian: Chúng ta cần sống theo quy tắc sử sự chuẩn mực, cần phải giúp đỡ người khác; điều cần thiết của một vị cứu tinh là cần đọc kinh điển và phải có niềm tin. Tôi vội nói: “Ngoại ơi, con đã biết điều này rồi mà. Con đã học tất cả vào mỗi ngày Chúa Nhật. Tại sao ngoại lại dạy con nữa.”
“Bà đáp rất đơn giản rằng: “Đó là trong những cẩm nang phúc âm mà những điều huyền bí về Thiên Đường được tìm thấy.”
“Ngoại nói gì vậy kìa?"
"Tôi không có thấy có điều bí ẩn nào trong lời nói của ngoại hết, mà chỉ nhận được tình thương vô bờ bến của ngoại thôi. Tôi thấy rằng không lợi ích gì nếu ngoại dạy dỗ tôi về những căn bản đạo đức mà tôi đã học thuộc lòng từ nhiều năm về trước. Nhưng bà vẫn tiếp tục lập đi lập lại về nền tảng căn bản của đức tính tốt, tín ngưỡng, và lực lượng của sự hối lỗi, những điều mà ai cũng có thể học được từ Thánh Kinh. Tôi lắng nghe, và sự thất vọng của tôi càng gia tăng khi chúng tôi bay lên trên một sườn đồi."
"Khi tới được đỉnh, tôi nói:
Ngoại ơi, con đã biết tất cả rồi. Con thật sự hiểu hết. Ngoại hãy dạy con những điều khác đi.”
“Con chưa có chuẩn bị mà.”
“Con sẵn sàng rồi ngoại. Con sẵn sàng để hiểu biết thêm.”
“Không được. Con còn chưa tin tưởng ở những điều căn bản. Con thiếu niềm tin.”
“Điều gì mà tôi không tin tưởng? Tôi thiếu niềm tin như thế nào?”
“Ồ! Nhưng ngoại đã biết rõ. Ngoại đã biết rõ về tôi còn nhiều hơn mà tôi có thể tưởng tượng..."
"Khi đang đứng trên dốc cao nhìn xuống một thung lũng nhỏ, tôi thấy một cảnh tượng đã thay đổi tôi vĩnh viễn. Một quang cảnh thiêng liêng trên cả lời nói, trên cả sự biểu lộ, và những ai chứng kiến đều giữ kín nó ở trong lòng.
Tôi thấy rằng mình quả thực đã thiếu niềm tin. Tình thương không đơn giản như một lời nói hay một sự cảm xúc mà tình thương là một năng lực sinh ra và tác động vào mọi thứ ở chung quanh. Tình thương là năng lực của đời sống. Điều này đã là một điểm quay cho tôi, điều này ban cho tôi tất cả sự hiểu biết cùng tình thương để phát huy ra, nhưng tôi không thể nào chia xẻ từng chi tiết nơi đây ngoại trừ nói rằng tôi biết tình thương giữa con người ở đây là vĩnh cửu. Tôi cảm thấy ngoại tươi cười với sự vui sướng và tôi hiểu rằng mình đã vượt qua được sự thử thách.”
“Ngoại nắm tay tôi, chúng tôi bay nhanh qua những đồng bằng đồi núi. Tôi cúi xuống nhìn mặt đất bay qua vùn vụt ở dưới chân. Chúng tôi bay nhanh như một điểm sáng trong thế giới tâm linh mênh mông rộng lớn này để hướng chuyển vào không gian, càng bay thì càng nhanh.
Và cánh cửa ngập tràn sự hiểu biết mở ra và trút vào tôi không kể hết hay cưỡng ép; đó là nguồn cội ánh sáng và chân lý bao bọc chung quanh tôi, nó trong sáng dễ hiểu, và được ngoại giảng giải theo đẳng cấp của tôi. Ngoại đã cho tôi sự hiểu biết về Thượng Đế, đời sống, và sự tạo hóa của thế giới, kể cả đạt đến sự bất diệt. Những chân lý bao hàm toàn diện, đầy đủ, và đổ lên người tôi với số lượng khổng lồ làm cho tôi nghĩ đầu của mình sẽ nổ tung. Nó đến nhanh quá. Tôi muốn có khả năng tiếp thu để nhớ hết tất cả, nhưng nhiều quá và... “Tôi không thể chịu đựng được!” “Ngừng lại!” Tôi nói.
“Lập tức tất cả sự truyền đạt đều ngưng lại, và chúng tôi dừng lại im lặng trong khoảng khắc. Ngoại nhìn thẳng vào tôi và tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tại sao con lại làm như vậy?” Ngoại hỏi:
“Con không thể thu thập hết mọi điều mà ngoại cho con. Làm sao con có thể nắm giữ hết tất cả được?”
“RaNelle. Đừng lo”, ngoại nói thêm, “Đừng có sợ sệt và nghi ngờ chính mình, vì con sẽ nhớ lại hết tất cả khi con cần đến, và chúng sẽ mang đến cho ký ức của con bằng Thánh Linh. Nên có niềm tin. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Thượng Đế.”
“Đến giờ này tôi mới chợt hiểu điều gì là vật chướng ngại lớn nhất ngăn chận sự thăng hoa của tôi trong cuộc sống, đó là sự sợ hãi, những năm qua nó đã làm phiền tôi và đã chận đứng sự tiến hóa của tôi. Sự sợ hãi đã giới hạn sự vui hưởng cuộc sống của tôi và bây giờ nó lại trở ngại tôi. Khi tôi sợ hãi, năng lượng của sự du hành, hiểu biết, và thăng hoa trở nên tê liệt.
“Đừng sợ điều này.” Tôi nói với chính tôi. “Hãy thả lỏng.” Và chúng tôi lại di chuyển, sự hiểu biết lại tuôn tràn vào tôi nhanh hơn bao giờ hết.
"Từng quang cảnh, từng quang cảnh của đời sống chân lý lướt qua: lịch sử trên Trái Đất, lịch sử sự hiện hữu của chúng ta trước khi Địa Cầu hình thành, những nguyên tắc, những sự việc, những điều mà tôi không có khái niệm gì... Tôi thấy và kinh nghiệm những điều đó, và trở thành một phần của mỗi cảnh."
“Tôi còn thấy được tất cả chúng ta đã đứng trước Đấng Cha Lành trước khi xuống trần gian cùng với các anh chị em trong cõi Vô Cùng (bất diệt). Một lần nữa tôi kinh nghiệm được điều này, giống như tôi đã có kinh nghiệm trong chính cuộc sống trước kia (kiếp trước) của tôi. Tôi thấy chúng ta tự mình chọn xuống đây để đối diện những thử thách và thu thập kinh nghiệm ở Trái Đất này.”
“Tôi thấy rằng chúng ta đã chọn đi theo một vị cứu tinh người mà có thể chuộc lại những tội lỗi của chúng ta đã làm từ kiếp trước và đưa chúng ta trở về với Đấng Cha Lành. Tôi thấy tình thương và sự hân hoan chạy khắp cả người tôi lần nữa khi chúng ta chấp nhận Chúa Giê-Su như một Vị Cứu Tinh. Chúng ta đã giơ cao cánh tay phải, giống như chúng ta làm trong một phiên tòa sử án, rồi chúng ta đã long trọng cam kết với Thượng Đế rằng chúng ta sẽ làm hết khả năng của mình để hoàn thành sứ mệnh của chúng ta trên địa cầu. Tôi cảm thấy đó một danh dự lớn lao mà làm hiệp định này trước Đấng Cha Lành trên Trời của chúng ta. Chúng ta đã thề, với mục đích (kế hoạch), để trở thành người cộng sự viên với Ngài để đem lại sự tốt đẹp cho địa cầu. Chúng ta đã hứa sẽ dùng thời gian, nghị lực, và tài năng để giúp đưa toàn bộ những thông điệp của vị Cứu Tinh, để giúp đưa những anh chị em của chúng ta trở về lại với Đấng Cha Lành.
“Tôi thấy Ngài biết mỗi người chúng ta, từng cá nhân. Ngài biết tấm lòng chúng ta, biết linh hồn chúng ta, và Ngài thương yêu chúng ta vô bờ bến, như là Ngài đã ở với mỗi chúng ta trong một thời gian vô định để chỉ bảo và yêu thương chúng ta. Thời gian không hiện hữu, mỗi chúng ta luôn có mối quan hệ với Ngài."
"Tôi thấy những người đứng cạnh tôi trong buổi lễ đó là những người dự một phần chơi trong cuộc sống của tôi trên địa cầu. Chúng ta đều quan hệ với nhau trong phương cách sống. Nếu một người trong chúng ta thất bại trong sứ mệnh của anh hay chị ấy thì tất cả chúng ta đều chịu sự dày vò khổ đau trong cách này hoặc cách khác, nhưng nếu có một người thành công thì tất cả đều được lợi ích. Chúng ta như là tiểu thể trong một đại thể, nó sẽ tốt đẹp khi được toàn vẹn, nhưng nếu chúng ta lấy đi một phần thì tất cả chúng ta đều sẽ bị thiếu hụt và không thể trọn vẹn đến khi tìm được phần đó để lại đúng nơi của nó. Chúng ta cần có nhau, chúng ta vẫn như vậy, và luôn luôn sẽ như vậy.
“Nhiều sự việc bất diệt khác đi qua tôi. Hình như tôi tắm trong đó và trở thành chúng. Chúng đã đổ vào linh hồn tôi, và tôi biết rằng tất cả những kiến thức này tôi chưa thể nhớ hết, có điều tôi ghi nhớ được như là làm tuyên thệ với Đấng Cha Lành, còn vài điều khác thì tôi vẫn đang chờ đợi để nhớ.
Tôi hỏi ngoại: Con có thể viếng thăm bạn bè của con không, những người con mà đã yêu thương từ vô thủy vô chung. Ngoại đáp:
- Có vài người vẫn còn sống ở Trái Đất, nên con không thể thấy họ được.
- Còn những người khác thì sao? Tôi hỏi.
Tức thì họ đến với tôi, những người xinh đẹp của ánh sáng và tình thương. Tôi nhớ họ và cả tên của họ nữa. Có vài người đã sống trên Trái Đất và đã chết, có vài người thì chưa bao giờ được sanh ra. Tất cả ký ức về sự hiện hữu của tôi trước khi địa cầu hình thành trở lại với tôi, và tôi sẽ không nhớ được khi trở về Trái Đất vì những điều này chỉ dành cho nơi này mà thôi. Tôi chấp nhận, và các bạn của tôi đến ôm tôi, hoan nghêng tôi trở về."
"Tôi cảm nhận được tình thương toàn thiện của họ và biết rằng họ sẽ không bao giờ lìa xa tôi. Có một người bạn nữ cứ ở cạnh bên ôm tôi một hồi lâu. Cô ấy có vẻ thân thiện với tôi một cách lạ thường, nhưng tôi có đôi chút không hiểu là điều gì."
“Bạn có biết là tôi luôn ở bên cạnh bạn không?,” cô ấy nói.
“Tôi không bao giờ rời xa bạn, và sẽ không bao giờ...”
Cô ấy đã ghi nhớ từng lời của tôi nói và làm tôi rất cảm động khi tôi biết được cảm tình của cô đối với tôi là hết lòng tận tâm và yêu thương.
“Tôi luôn ở cùng bạn!" Cô ấy lại nói.
Ngoại nắm tay tôi, rồi tôi lại thấy chúng tôi ở trong một khu vườn và đang di chuyển trên một sườn đồi tuyệt đẹp khác. Mọi thứ đều hòa hợp, hoàn hảo, như những điệu nhạc êm đềm và diệu êm.
Ngoại vẩy tay thì chúng tôi ngừng lại trên một ngọn đồi cao. Tôi thấy hàng triệu người trước mặt chúng tôi. “Đây là linh hồn của những người đã chết.” Ngoại nói. “Họ đang chờ đợi để công việc được hoàn tất. Họ đợi những người trên Trái Đất làm xong phần việc của họ.
“Phần công việc của họ?” Tôi hỏi. “Công việc gì?”
(Ngoại lại cho tôi thấy những người được sắp xếp vào từng nhóm gia đình.)
“Con phải cam kết với chính mình để dành thời gian và tài năng trên Địa Cầu để làm việc cho Thượng Đế nhiều hơn nữa. Con cần những người này, và họ cũng cần con. Chúng ta tất cả đều phụ (lệ) thuộc vào nhau.
(Hồi tưởng lại cuốn phim đời của tôi đã chỉ điểm sự cẩu thả mà tôi đã làm trong việc phục vụ người khác như thế nào. Bây giờ tôi mới thấy rằng có nhiều cách tôi có thể làm như là: chia xẻ, hy sinh, bố thí những gì mà tôi có.)
Những linh hồn của những người đã chết đang chờ đợi mỗi chúng ta để đến gần Chân Lý hơn, để một lần nữa trở thành Đại Thể, để nhận biết lực lượng của Thượng Đế và sống trong ánh sáng của Ngài.
Ngoại vẫy tay, mặt đất mở ra trước mặt chúng tôi. Tôi nhìn xuống thấy một người đang nằm trên giường trong một bệnh viện, chung quanh có rất nhiều bác sĩ và y tá. Khuôn mặt bệnh nhân bị băng bó lại.
Con sẽ không bao giờ giống như trước nữa, RaNelle,” ngoại nói. “Mặt con sẽ biến đổi và thân thể con sẽ bị đau đớn; khi trở về, con sẽ trải qua nhiều năm để phục hồi.”
“Khi nào con trở về?” Tôi nhìn ngoại.” “Ngoại cho rằng con phải trở về sao?” Bỗng dưng sự hiểu biết đến, tôi nhìn người nằm trên giường tay duỗi thẳng, cả hai cánh tay và bàn tay đã bị cắt nhiều chỗ để chất nước vàng chảy vào trong những túi ni-lông.
Tôi thấy khiếp sợ nói. “Con đó hả?”
“Ừ, RaNelle, con đó. Con sẽ mang rất nhiều thẹo...”
“Tôi muốn điên lên. “Ngoại! Con không trở về đâu.”
“Con của con cần con, RaNelle.”
“Không, không đâu. Chúng nó tốt nhất là sống với người khác, vì con không thể cho chúng nó những gì mà chúng nó cần.”
“Không phải chỉ con cái của con không RaNelle, mà con còn có nhiều việc để làm lắm – những việc mà con chưa làm xong.”
“Không. Tốt nhất là con ở lại đây. Con không muốn gánh chịu những nỗi đau khổ đó.” Tôi chỉ vào thể xác tôi.
Tôi đã cự tuyệt và muốn ở lại đây.
“Con phải trở về. Ngoại tiếp. “Sứ mệnh của con chưa hoàn thành.”
“Không. Con không muốn trở về cái thể xác đó! Con không trở về đâu.”
Khuyên bảo không được ngoại tôi đưa tay ra phía trước rồi ra lệnh: “Nhìn đây!”
“Một kẻ nứt mở ra trong không gian trước mặt, tôi thấy một cậu thanh niên trẻ tuổi đang bước đến gần chúng tôi. Lúc đầu cậu ta có vẻ ngơ ngác không hiểu tại sao mình lại ở nơi này, nhưng khi thấy tôi cậu ấy rất kinh ngạc.
“Tại sao cô lại ở nơi đây?” cậu nói hầu như là không thể tin vào chính mắt mình. Tôi vẫn giữ im lặng. Gương mặt của cậu từ kinh ngạc giờ đổi thành buồn bã rồi khóc nức nở. Tôi cảm nhận được nỗi u sầu và buồn bã của cậu ta nên tôi cũng bắt đầu rơi lệ.
“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. “Tại sao cậu lại khóc?” Tôi choàng tay ôm cậu, và an ủi cậu ta.
“Tại sao cô lại ở nơi này?” cậu ấy lại nói.
“Cậu cho tôi biết tên của cậu là Nathaniel, cậu chưa sanh ra ở trần gian. Cậu nói rằng nếu tôi không trở về thì sứ mệnh của cậu ấy sẽ bị cản trở. Sau đó cậu cho tôi thấy sứ mệnh của cậu ta... Và tôi thấy tôi sẽ là người mở những cánh cửa cho cậu ấy để giúp đỡ và ủng hộ cậu ấy.
“Tôi sẽ cố gắng làm xong những sứ mệnh của tôi, cậu nói, nhưng tôi sẽ không bao giờ hoàn thành sứ mệnh nếu không có cô. Tôi cần cô.
"Ồ! Tôi nghĩ trái tim mình có thể vỡ ra. Tôi là một phần trong sứ mệnh của cậu ấy; tôi đã làm cho cậu ấy đau khổ và tất cả mọi người mà cậu sẽ giúp đỡ bằng cách cự tuyệt không trở về trần gian. Tôi cảm nhận một tình thương bao la dành cho cậu trẻ này, và tôi muốn giúp cậu trong mỗi phương cách mà tôi có thể làm được.
Ồ! Nathaniel, tôi nói, ta thề với con rằng ta sẽ giúp con. Ta sẽ trở về, và ta hứa là ta sẽ làm tất cả những gì mà ta có thể làm để giúp con. Ta sẽ mở những cánh cửa đó cho con. Ta sẽ bảo vệ và ủng hộ con. Ta sẽ cho con mọi thứ mà ta có. Nathaniel, con sẽ hoàn thành sứ mệnh của con. Ta thương con!
“Sự đau buồn của cậu đã thay thế với lòng biết ơn. Mặt cậu ấy tươi vui hơn, và tôi thấy cậu ấy là một Thánh Linh cao cả. Cậu ta giờ đang rơi lệ với sự vui mừng và biết ơn.
“Cám ơn,” cậu nói. “Ồ, con thương cô, rồi ôm chầm lấy tôi.”
"Ngoại tôi nắm tay kéo tôi đi. Nathaniel đứng nhìn tôi đi mà trong lòng vẫn mỉm cười và tôi nghe rất rõ những lời cậu ấy nói: "Con thương Mẹ."
(Lúc đó tôi rất xúc động nhưng không thể phản ứng được gì vì tất cả mọi việc đều xảy ra rất nhanh.)
"RaNelle, Ngoại có điều này muốn nói với con. Hãy nói cho mọi người biết rằng chìa khóa chính là tình thương.
"Chìa khóa chính là tình thương. Ngoại lập lại một lần nữa."
"Chìa khóa chính là tình thương. Bà lại nói thêm lần thứ ba.
Sau đó bà thả tay tôi ra, nhưng chữ 'tình thương' vẫn âm vang trong đầu tôi trong khi tôi rơi vào một nơi đen tối sâu thẳm.

Tôi đã khóc khi rời khỏi thế giới ánh sáng huy hoàng tràn đầy tình thương
Thể nghiệm về sự chết của RaNelle kết thúc khi bà trở lại cái thể xác bị phỏng nặng đang nằm trong bệnh viện. Khoảng bảy năm sau, bà hạ sinh một đứa con trai và đặt tên cho cậu ấy là Nathaniel. Bà nói rằng nét mặt đứa con trai của bà giống y hệt như Nathaniel mà bà đã gặp trên Thiên Đàng.
*** Mỗi một thời đại đều có những vị Cứu Tinh như Moses, Chúa Giê Su, Phật v.v... nếu chúng ta muốn trở về Ngôi Nhà trên Thiên Quốc thì hãy đi tìm vị Cứu Tinh hiện tại, vì chỉ có vị này mới có thể dẫn dắt chúng ta trở về với Đấng Cha Lành... nếu không chúng ta sẽ mãi mãi luẩn quẩn trong vòng luân hồi.

Trích tamlinh.net

Tuesday, September 8, 2009

Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông

Chân tinh thần Phật giáo Bắc tông

Bài giảng trường hạ chùa Phổ Quang, quận Tân Bình, TP.HCM, ngày 6-7-2009
Phật giáo Nguyên thủy thường cho rằng kinh Đại thừa không phải Đức Phật nói và các học giả nghiên cứu Phật giáo cũng chấp nhận điều này. Riêng tôi, lúc mới vậy, Phật giáo Đại thừa có phải thuộc ngoại đạo hay không, hay nói nhẹ hơn là do ngoại đạo thâm nhập vào đạo Phật chăng? Tại sao họ lại nói như vậy? Thiết nghĩ, trước nhất chúng ta thấy kinh Đại thừa có nhiều điểm giống ngoại đạo và nói nhiều về chư Thiê chư thần, về sau Kim Cang thừa lại thêm thần chú.



Trong kinh Nguyên thủy không nói đến chư thần, chư Bồ tát và thần chú. Đề cập đến chư Phật quá khứ, Phật giáo Nguyên thủy chỉ công nhận có Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm và Phật Ca Diếp và hiện tại có Đức Phật Thích Ca, tương lai có Đức Phật Di Lặc ra đời. Các vị tu sĩ Nam tông nói với tôi rằng họ là Sa môn không lạy Đức Di Lặc, vì Ngài chưa thành Phật, mà đang đóng vai chư Thiên.

Trong khi theo Phật giáo Đại thừa, các Bồ tát hiện thân cư sĩ rất nhiều. Chúng ta lạy các Bồ tát như Quan Âm, Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, v.v… một cách tự nhiên và cung kính các Ngài với tất cả tấm lòng. Phật giáo Nguyên thủy cho rằng tu sĩ Phật giáo Đại thừa không phải là Sa môn. Vì vậy, nếu chúng ta tu theo Nguyên thủy, thì phải làm lễ xuất gia lại, thọ giới lại. Điển hình như chư vị Hòa thượng Tịnh Sứ, Giới Nghiêm, Ẩn Lâm là những vị lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy, nhưng lúc đầu các Ngài theo Phật giáo Đại thừa và phải thọ giới Tỳ kheo lại khi theo Nguyên thủy.

Khi Phật giáo Việt Nam tìm cách thống nhất sinh hoạt của Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Bắc tông, thì bước đầu gặp rất nhiều khó khăn; vì theo quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy, không coi chúng ta là Sa môn. Riêng tôi, để kết nối Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Nguyên thủy, tôi đã nghiên cứu và giảng giải những điểm tương thông giữa kinh điển Đại thừa và Nguyên thủy. Đó là điều tất yếu chúng ta phải thực hiện cho được.

Thật vậy, tôi phát hiện rằng
Phật giáo Nguyên thủy là gốc, không thể bỏ được, nhưng phải phát triển thành Phật giáo Đại thừa; vì nếu chúng ta giữ nguyên cái gốc Nguyên thủy, không phát triển thì Phật giáo không thể nào tồn tại được, sẽ bị mai một theo thời gian.

Thiết nghĩ danh xưng Phật giáo Phát triển dễ được chấp nhận hơn là Phật giáo Đại thừa. Vì nếu coi mình là Đại thừa, nghĩa là lớn thì sẽ đối lập với Tiểu thừa, coi họ là nhỏ, chắc chắn Phật giáo Nguyên thủy không chấp nhận. Chúng ta nên hiểu chữ “Đại” là đại chúng hóa, tức phát triển Phật giáo cho thích nghi tương ưng với đại chúng là số đông; vì nếu Phật giáo mang tính thuần nhất sẽ bị giới hạn, không phổ biến cho nhiều người được, mà bị thu hẹp lại trong phạm vi nhỏ. Tuy nhiên, muốn đưa Phật giáo ra đại chúng, cho nhiều người theo, phải thể hiện được nhiều dạng sinh hoạt khác nhau để thích hợp với nhiều tầng lớp xã hội, tương ưng với phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ rất đa dạng của nhiều quốc gia khác nhau. Nếu Phật giáo không được phát triển theo hướng đa đạng đa phương như vậy, chắc chắn sẽ bị cô lập, thử nghĩ còn được bao nhiêu nước theo Phật giáo?

Ngày nay, Phật giáo Nguyên thủy đã phải công nhận thế mạnh này của Phật giáo Đại thừa trong việc hoằng truyền Chánh pháp trên khắp năm châu, đó là hướng tốt cho chúng ta trong việc kết nối với Phật giáo Nguyên thủy. Ngoài ra, Phật giáo Đại thừa cũng phải chấp nhận Phật giáo Nguyên thủy là hình thái gốc của chúng ta. Nhận thức đúng đắn như vậy,
tuy giới Phật giáo có hai màu áo khác nhau, sinh hoạt khác nhau, nhưng không chống nhau; trái lại, cùng nhau thể hiện tinh thần hòa hợp. Sự hòa hợp này có nghĩa là chấp nhận những điểm khác nhau; hòa hợp nhưng không phải là một.

Thể hiện tinh thần hòa hợp này, phương châm của Giáo hội Phật giáo chúng ta là thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức; đồng thời vẫn tôn trọng và duy trì các truyền thống hệ phái, cũng như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng Chánh pháp. Vì vậy, hòa hợp là ai theo Phật giáo Nguyên thủy, hay Phật giáo Khất sĩ, hoặc Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Cổ truyền, v.v… đều được,
miễn là đúng Chánh pháp; những gì không đúng, không thích hợp với thời đại thì tự mất. Thực hiện điều này, trong năm nhiệm kỳ hoằng pháp vừa qua, tôi cố gắng tạo sự dung hòa trong thế tôn trọng lẫn nhau, không phải loại bỏ nhau. Chúng ta vẫn tôn trọng sự biệt truyền, vì nhìn nhau theo hướng đa dạng, đa phương nên không có gì trở ngại.

Đạo Phật lấy con người làm gốc, không chủ trương tôn sùng thần linh tuyệt đối; nhưng con người đều có nhu cầu khác nhau, đương nhiên ngoài xã hội còn rộng hơn nhiều. Có thầy tôn kính Đức Quan Âm, nhưng có thầy không có niềm tin này. Chắc chắn là tín ngưỡng của quần chúng đa dạng, không thể hoàn toàn giống nhau. Nhận ra yếu nghĩa này, chúng ta thấy rõ Phật giáo phát triển có nghĩa là phải hội nhập mới tồn tại.
Chúng ta nên gọi là Phật giáo Bắc tông, vì truyền lên phía Bắc và Phật giáo Nam tông vì truyền xuống phía Nam; đó là hai hướng hoạt động chính của Phật giáo từ khởi đầu con đường truyền bá Chánh pháp. Phật giáo truyền xuống phía Nam là xuống đảo Tích Lan, ở đó kinh Pali được in thành sách đầu tiên, chứ không phải ở Ấn Độ. Và đến Tích Lan, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn, vì văn minh nhân loại không có mặt ở đây.

Về sau, từ Tích Lan, Phật giáo được truyền sang Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào và ở các nước này cũng không có nền văn minh lớn nào cả, nên Phật giáo vẫn giữ vai trò độc tôn. Mặc dù nói rằng Phật giáo của các nước này có vị trí độc tôn, nhưng thật sự cũng phải hội nhập xã hội mới tồn tại. Vì vậy, tuy mang hình thức Phật giáo Nguyên thủy, nhưng chắc chắn phải có sự phát triển để thích nghi với từng nước khác nhau. Cho nên, cùng mang hình thức Nam tông, nhưng Phật giáo Thái Lan khác với Phật giáo Lào và Phật giáo Lào cũng khác với Phật giáo Campuchia.

Thật vậy, ít nhất trong hệ phái Nam tông cũng có hai hệ phái, một hệ phái Phật giáo của giới quý tộc, hoàng gia và một hệ phái Phật giáo của đại chúng để người dân thường được xuất gia, tu học theo. Rõ ràng là Phật giáo Nam tông cũng có sự phân biệt này để thích nghi với nhu cầu xã hội, vì sinh hoạt của giới xuất gia được vua chúa bảo hộ, nhưng số này cũng có giới hạn; cho nên phải mở rộng thêm cho Phật giáo truyền thông được với quần chúng để số đông dân chúng có thể nương tựa Tam bảo; như vậy, Phật giáo Nam tông cũng đã có sự phát triển rồi.

Phật giáo Nam tông tại năm nước Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia có tính cách thuần Phật giáo, vì họ không tiếp nhận được nền văn minh nào khác. Trong khi Phật giáo Bắc tông ngoài truyền thống Phật giáo, còn tiếp thu văn minh Ấn Độ là một trong những nền văn minh cổ đại rất lớn của nhân loại có trước khi Đức Phật ra đời. Theo kiến giải của Phật giáo Bắc tông, Đức Phật kế thừa văn minh này, nhưng Ngài kế thừa có chọn lọc và kế thừa đối lập. Nghĩa là những gì cổ đức giảng dạy, Đức Phật loại bỏ điều không thích hợp và sử dụng những gì thích hợp, không phải bác bỏ tất cả. Thực tế cho thấy nếu chúng ta bác bỏ cái cũ sẽ bị sức đối lập rất mạnh, nhất là các thầy trẻ tiếp thu văn minh mới dễ đối lập với Phật giáo truyền thống, thì sẽ bị họ nhận chìm.

Chính vì sự kế thừa có chọn lọc như vậy, chúng ta nhận thấy trong kinh Nguyên thủy, những lời Phật dạy phảng phất tư tưởng của Bà la môn giáo, của Phệ Đà, của sáu phái ngoại đạo Upanishad. Những gì Đức Phật phê phán ngoại đạo, chúng ta gọi là kế thừa đối lập. Người xưa cũng nói rằng xe trước đổ, xe sau tránh. Dấu mòn cũ cũng giúp chúng ta thấy đúng sai, thấy có hố xe đổ, chúng ta phải dừng lại, tìm đường khác mà đi. Nhờ học thuyết không đứng vững, chúng ta nảy sinh được tư tưởng mới; còn kế thừa theo truyền thống thì cứ nhắm mắt theo.

Quán sát thời Phật tại thế, lúc đó đạo Bà La Môn đã rơi vào tình trạng suy đồi đến mức xã hội không chấp nhận. Và Đức Phật đã kế thừa đạo Bà La Môn trong thế đối lập, nên được dân chúng Ấn thời đó tin theo. Tư tưởng đối lập của Phật là gì ? Nghĩa là Đức Phật bác bỏ chủ trương tập ấm, tập truyền của Bà La Môn. Ngài khẳng định rằng con người không có giai cấp, không nhất thiết người theo đạo Bà La Môn thì thông minh, vì trí thông minh đều có trong bốn giai cấp thời đó.

Tư tưởng mới của Đức Phật là không chấp nhận giai cấp mà chỉ Đức Phật mới đủ tư cách nói lên chân lý này, vì Ngài xuất thân từ giai cấp cao trong xã hội bấy giờ. Quần chúng Ấn Độ đã tin theo Phật, vì Ngài nói lên nguyện vọng của họ, bênh vực quyền lợi cho họ. Đến khi quần chúng theo Phật đông, uy tín Phật rất mạnh, đạo lực Phật siêu việt, nên buộc vua chúa cũng phải theo Ngài. Đức Phật đã dung hóa được bốn giai cấp vốn không thể nhìn nhau, mà nay có thể ngồi lại với nhau, tạo thành xã hội an lạc thật sự.

Chủ trương không có giai cấp do Đức Phật đề ra, chúng ta nên hiểu như thế nào? Nếu nhìn đúng như thật, chúng ta phải thấy
sự bình đẳng luôn hiện hữu trên chân lý, còn trong thực tế xã hội này, phải chấp nhận có sự sai biệt khác nhau của từng người. Đừng hiểu lầm rằng thực tế cuộc sống này không có sai biệt mới tốt; vì không thể nào không có sự sai biệt giữa con người. Thật vậy, chúng ta cùng tu theo Phật giáo, nhưng tôi thuyết pháp, thầy Tại làm thư ký, thầy Quang Thạnh thì vận động Phật tử mở đầu việc cúng dường hai tuần cho trường hạ. Tất cả chúng ta, mỗi người có một việc khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là giữ gìn uy tín, danh dự của trường hạ này. Không phải tất cả mọi người ở đây cùng làm một việc. Tùy theo trình độ, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh mà chúng ta đóng góp cho Phật giáo khác nhau, không loại bỏ ai ra ngoài; đó là tinh thần phát triển, trừ bỏ một thành phần nào cũng làm cho Phật giáo bị suy yếu, bị phân hóa.

Giáo hội Phật giáo chúng ta nhờ đoàn kết và chấp nhận sự sai biệt của các hệ phái, nên đã thành tựu một số việc đáng kể trong suốt 30 năm qua. Mỗi người làm một việc đúng với khả năng mình, nhất định đều đóng góp được lợi ích cho đạo pháp. Phật giáo Đại thừa triển khai giáo pháp cho đại chúng theo được, từ đó mới có những nhân vật của truyền thống Ấn Độ, như Đại Phạm Thiên vương, Trì Quốc Thiên vương, Tỳ Sa Môn Thiên vương là chư Thiên mà người Ấn tin tưởng. Đó chính là tinh thần kế thừa có chọn lọc, tức có sự thay đổi mà dân chúng Ấn chấp nhận được.

Với tinh thần dung hóa như vậy, Phật giáo phát triển truyền lên phía Bắc gặp văn minh Ai Cập, Hy Lạp, La Mã là ba nền văn minh lớn của Trung Đông và tiếp thu ba nền văn minh này, hình thành tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Như vậy, có thể nói vào thời kỳ đó, tư tưởng Phật giáo đã trở thành đỉnh cao của văn minh nhân loại. Nhưng khi Phật giáo phát triển mạnh mẽ như vậy, cũng phạm phải sai lầm. Thật vậy, Phật giáo rực rỡ ở Iran, Irak với những pho tượng Phật vĩ đại cao đến 60 - 70 mét, nhưng dân chúng ở đây không theo đạo Phật. Phật giáo mạnh về tư tưởng siêu tuyệt, nhưng yếu vì không thâm nhập được vào đời sống quần chúng. Vì vậy, từ vị trí thống lĩnh toàn cầu về tư tưởng, Phật giáo đã rơi vào thế yếu, vì bỏ rơi quần chúng. Không kết hợp được với quần chúng, nên Phật giáo bị phân hóa, cuối cùng bị Hồi giáo sát hại. Đây là bài học ngàn vàng mà quý thầy cần ghi nhớ, sự phát triển về tư tưởng rất cần thiết, nhưng lực lượng quần chúng cũng quan trọng không kém. Ngày nào Phật giáo không còn là nơi nương tựa vững chắc của quần chúng thì biết Phật giáo sắp bị tận diệt.

Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng quần chúng là quan trọng nhất. Dù chúng ta có lên đến đỉnh cao là Phật, nhưng không phải ngự mãi trên cao này được. Trở về thực tế, thầy nào có hai, ba bằng cấp tiến sĩ, đừng nghĩ mình là nhất; vì không có quần chúng ủng hộ, sẽ bị rớt xuống. Nền tảng là quần chúng chiếm 80%, thành phần ở giữa khoảng 20% và ở trên đỉnh chỉ có 1%.

Phật giáo Việt Nam rất may mắn, vừa tiếp thu được những nền văn minh của Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, lại đón nhận thêm nền văn minh Trung Hoa. Và chính bậc Đại Thiền sư lỗi lạc là Ngài Vạn Hạnh đã vận dụng được năm nền văn minh này vào việc hoằng hóa lợi sinh ở đất nước Việt Nam nhỏ bé, tạo thành sức mạnh siêu quần cho đất nước chúng ta nói chung và làm nên thời kỳ vàng son cho Phật giáo Lý Trần nói riêng.

Có thể khẳng định Phật giáo Bắc tông tôn thờ các thần linh, nhưng chính yếu vẫn là phát huy năng lực của con người. Còn tiếp thu để biến mình trở thành kẻ nô lệ là sai lầm, không phải mục tiêu của Phật giáo Đại thừa.

Phật giáo đời Lý phát triển lên đến đỉnh cao, các thiền sư đều là nhà trí thức; cho nên trong 51 nhà văn của đất nước ta đã có đến 49 nhà sư. Bấy giờ các nhà sư chỉ lo làm thơ, viết văn, không ai làm việc cầu an cầu siêu cho quần chúng, thì mất tín đồ là sự thật hiển nhiên. Thiết nghĩ Phật giáo càng phát triển cao về triết lý thì càng xa rời quần chúng. Ý thức điều này, tôi xây dựng đạo tràng Pháp Hoa là xây dựng quần chúng. Tôi làm được một số Phật sự nhờ có hơn 100 đạo tràng từ Cà Mau đến Móng Cái với trên hai vạn tín đồ. Trên tinh thần xây dựng quần chúng, Phật giáo Nhật Bản cũng quy định mỗi thầy phải hóa độ được ít nhất là 100 gia đình.
Còn chúng ta lo tu học nhiều, mà không quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân là điều bất lợi cho Phật giáo. Chúng ta vẫn tu, vẫn học, nhưng khi bổn đạo cần chúng ta hộ niệm cầu an hay cầu siêu, thì nên làm, vì đó là hành Bồ tát đạo để Phật giáo tồn tại trên thế gian này.

Theo tôi,
tông phái nào cũng được, quan trọng là quần chúng có chấp nhận và tu theo được hay không. Và khi được quần chúng ủng hộ rồi, chúng ta không nên xé lẻ ra mà nên sinh hoạt chung trong Giáo hội. Thấy người làm được việc, chúng ta kính trọng, không nên gièm pha. Hòa thượng Thanh Từ xây dựng được nhiều thiền viện, độ được nhiều Tăng Ni, Phật tử, Ngài là bậc cao tăng đáng kính trọng. Hoặc Hòa thượng Nhất Hạnh thành công trên con đường hoằng pháp khắp thế giới. Tôi coi thành công của Ngài là thành công của Phật giáo Việt Nam, rất đáng được trân trọng. Ngài truyền đạo ở các nước Tây phương, nên phải thích nghi với văn hóa Tây phương. Ngài để tượng Đức Phật nhìn tượng Đức Chúa, hai đấng giáo chủ này mỉm cười với nhau. Nếu không hiểu Hòa thượng thì chê bai, nhưng đạo hạnh của Ngài đã cảm hóa được nhiều người, đó là tinh thần đa dạng, đa phương của Phật giáo Đại thừa.

Trong kinh Pháp Hoa, ý này được Đức Phật ví như đất sét, tùy theo yêu cầu của người tiêu dùng mà người thợ tạo ra những món đồ khác nhau, tiêu biểu cho những phương tiện của đạo Phật. Cũng giống như vậy, đến đâu hành đạo, nếu người ta cần coi ngày giờ tốt xấu, tôi cũng coi được, để đáp ứng nhu cầu của quần chúng, nhưng cốt lõi bên trong của mình vẫn là tu sĩ Phật giáo. Còn phương tiện thì đa phương, đa dạng và tùy theo thời gian mà chúng ta thay đổi cho thích hợp, để dần dần dìu dắt mọi người theo Phật đạo.

Tóm lại, để sinh hoạt Phật giáo tồn tại và phát triển trên thế gian này, chúng ta không chỉ lo phát triển số đông tín đồ, mà quên việc đào tạo người lãnh đạo, quên việc phát triển đức hạnh và tâm linh của người tu; hoặc ngược lại, không phải chỉ chú trọng việc tu học, mà không quan tâm đến việc hướng dẫn quần chúng ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống hàng ngày, hay không đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của số đông người dân thường.

Tăng Ni và Phật tử, mỗi người bằng tất cả tấm lòng vì đạo của mình và tùy theo khả năng, tận lực đóng góp cho ngôi nhà Phật giáo luôn là bóng mát bình yên cho mọi người nương tựa. Đó chính là chân tinh thần Phật giáo Đại thừa hướng đến cho mọi người, vì hạnh phúc, an vui của mọi người.

HT.Thích Trí Quảng
Trích báo Giác Ngộ

Football Life 2023

Football Life được làm lại từ bảng PES 2021 do SmokePatch thực hiện, chỉ dành cho chơi offline. Bảng download tổng hợp bao gồm: Base 1.0 Upd...